Saturday
Nhung Dieu Can Biet Khi Lam Chung
Những Ðiều Cần Biết Khi Lâm Chung
Lời người dịch
Trong suốt 49 năm hoằng pháp lợi sinh của Ðức Phật, từ bước đầu chuyển bánh xe pháp “Tứ diệu đế” tại vườn Lộc Uyển độ năm anh em Kiều Trần Như, đến phút cuối Niết bàn độ Tu Bạt Ðà La. Với hơn 300 hội thuyết pháp của bậc Ðạo sư đã “khai quyền hiển thực” hướng dẫn chúng sinh chuyển mê thành ngộ đạt tới đích giải thoát. Ðứng trên phương diện giáo dục Ngài dạy chúng sinh theo phương pháp “Tứ tất đàn” để tùy thuận căn cơ lợi độn, đưa con người trở về cội nguồn chân tâm thường trụ thanh tịnh. Giáo pháp ngài thuyết giảng được các bậc Ðại Tổ sư chia thành mười hai bộ Kinh, một trong mười hai bộ Kinh này có nền giáo lý Tịnh độ. Một trong ba bộ Kinh “Vô vấn tự thuyết” căn bản của Tịnh độ, đều từ kim khẩu của Ðức Phật ca ngợi tán thán vẻ đẹp kỳ diệu, công đức thù thắng của cõi Tây phương. Ðồng thời Ngài khuyên tất cả chúng sinh nên phát nguyện niệm Phật cầu sinh Tây phương. Vì sao? Vì pháp môn Tịnh độ là phương tiện hàng đầu trong các phương tiện, liễu nghĩa nhất trong các pháp liễu nghĩa, viên đốn trong các pháp tối viên đốn. Không luận là hạng người nào, từ người quê mùa chân lấm tay bùn đến hàng người trí thức, từ tuổi trẻ thanh niên cho đến ông già bà cả, từ những người bệnh cho đến những người khỏe mạnh. Nếu ai có lòng tin sâu, nguyện thiết, hành chuyên sự lý thông suốt, phát nguyện vãng sinh thì nhất định đạt được mục đích.
Nói đến những khổ đau trong thế gian này thì không khổ gì bằng khổ tử vong, đối với việc tử vong thì mỗi chúng ta ai ai cũng biết và không thể nào trốn tránh được, vì đó là định luật tự nhiên. Song, điều quan trọng nhất vào giờ phút lâm chung là tâm niệm của mỗi người. Vì tâm niệm cuối cùng đó sẽ tùy theo nghiệp tạo tác lúc hiện tiền mà đầu thai vào các cõi. Ðối với người tu Tịnh độ ba món tư lương quan trọng nhất là Tín, Hạnh, Nguyện. Nhưng điều tối quan trọng hơn là vào giờ phút lâm chung làm sao phải giữ được tâm niệm cầu sinh Tây phương, không nên quyến luyến con cháu cho đến của cải tài sản để rồi tùy theo tâm niệm luyến ái đó đánh mất nhân duyên trăm nghìn kiếp vãng sinh Tịnh độ của chính mình.
Nhận thấy tập sách “Những vấn đề cần biết khi lâm chung” của Pháp sư Thế Liễu soạn, có thể đáp ứng phần nào vấn đề khúc mắc, sai lầm trong giờ phút lâm chung của người Phật tử tại gia. Chúng tôi là hàng sơ cơ bước vào đạo, đối với sở học còn non kém, nhưng được sống trong môi trường tu học pháp môn Tịnh độ và tổ chức các Khóa tu Phật thất. Nên chúng tôi mạo muội dịch tập sách này từ chữ Hoa sang chữ Việt, để mong đóng góp được phần nào trong việc hoằng dương Tịnh độ.
Trong quá trình soạn dịch chắc chắn sẽ có nhiều điều sai sót, kính mong chư tôn đức từ bi chỉ dạy cho, để lần tái bản được hoàn thiện hơn. Ðồng thời cầu mong cho quý vị đồng tu không nên chấp trước vào văn tự hẹp hòi mà điều thiết yếu y theo đó thực hành thì nhất định tránh được những sai lầm vào giờ phút lâm chung mà thành tựu việc liễu sinh thoát tử, xa lìa khổ não, vãng sinh Tịnh độ.
Nam mô A Di Ðà Phật
Tâm An
LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC NGƯỜI NIỆM PHẬT LÂM CHUNG CÓ ÐƯỢC VÃNG SINH HAY KHÔNG?
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni ở thành Xá Vệ vườn trưởng giả Cấp Cô Ðộc đã thuyết Kinh A Di Ðà, Ngài ca ngợi tán thán sự trang nghiêm của thế giới Cực Lạc, từ đó khuyên đại chúng nên phát nguyện vãng sinh Tây phương trong Kinh nói: “Như ta ca ngợi tán thán cái lợi công đức bất khả tư nghì của Phật A Di Ðà, ở phương Ðông có A Súc Bệ Phật v.v... phương Nam có Nhật Nguyệt Ðăng Phật... phương Tây có Vô Lượng Thọ Phật... hạ phương có Sư Tử Phật... các Ngài đều hiện ra tướng lưỡi rộng dài, nói lời chân thật, khuyên bảo chúng sinh nên một dạ tin kinh thì công đức lớn lao vô cùng, vì tất cả các chư Phật đều luôn hộ trì tưởng nhớ”. Ðiều này cho thấy rằng vãng sinh Tịnh độ là một nhân duyên lớn, mười phương chư Phật, đồng nghe kinh và tán thán, phàm có sinh niềm tin, có phát nguyện niệm Phật cầu sinh về cõi Cực Lạc thì nhất định đều có thể vãng sinh.
Hỏi: Nếu nói rằng người niệm Phật đều được vãng sinh Tây phương, thì tại sao tôi thấy có nhiều người tại gia cũng như xuất gia bình thường niệm Phật nguyện vãng sinh Tịnh độ, nhưng đến phút lâm chung thì chết một cách mơ mơ hồ hồ chẳng thấy mấy ai chân thật vãng sinh là vì sao?
Ðáp: Ðó là do người niệm Phật vào giờ phút lâm chung do nhân duyên không đầy đủ. Nếu có đầy đủ nhân duyên thì nhất định sẽ được vãng sinh.
Hỏi: Thế nào là nhân duyên?
Ðáp: Người niệm Phật bình thường tin sâu nguyện thiết, niệm Phật cầu sinh Tây phương, cho đến giờ phút lâm chung vẫn giữ được tâm niệm đó, thì đó là “nhân” tự lực, tuy nhiên đối với người lúc bình thường chưa biết tín nguyện niệm Phật cầu sinh Cực Lạc, nhưng đến giờ phút sắp lâm chung may mắn gặp được thiện hữu tri thức khai thị mới sinh tín nguyện, cầu sinh Tây phương thì đây cũng là “nhân” tự lực. Giáo chủ Cực Lạc, là Ðức Phật A Di Ðà cùng với vạn đức hồng danh, có thể khiến cho chúng sinh vãng sinh Cực Lạc đây là “Duyên” tha lực, và cho đến giờ phút lâm chung gặp được thiện hữu trợ niệm và đây cũng chính là “duyên” tha lực.
Hỏi: Người niệm Phật đến lúc lâm chung đầy đủ nhân duyên thì có thể vãng sinh Cực Lạc, xin giải thích rõ nguyên tắc trên.
Ðáp: Người niệm Phật đến giờ phút lâm chung mà tin sâu nguyện thiết niệm Phật là “duyên” tha lực, còn cái tâm năng niệm Phật là “nhân” tự lực. Vào ngay lúc đó dùng cái tâm năng niệm Phật mà niệm Ðức Phật A Di Ðà thì Ðức Phật A Di Ðà nhân cái tâm năng niệm mà hiển hiện. Tâm năng niệm Phật lại nhờ sự hiển hiện cầu Phật A Di Ðà mà được thanh tịnh và ngay chính lúc đó, khiến cho sự tự lực có sự cảm ứng đạo giao, chính sự nhân duyên hòa hợp này cho nên thành tựu việc vãng sinh. Ðây chính là nguyên tắc “Nhân duyên” vậy.
Hỏi: Người niệm Phật đến lúc lâm chung, mà nhân duyên không đầy đủ thì không thể vãng sinh có đúng vậy không?
Ðáp: Người niệm Phật bình thường tín nguyện có công phu niệm Phật nhưng chưa thuần thục. Ðến giờ phút lâm chung tuy có tâm tín nguyện cầu sinh Tây phương (có “nhân”) song bị bệnh khổ và các phiền não khác bức bách nên tâm niệm Phật không phát khởi, lại không gặp được thiện hữu khai thị và trợ niệm (không “duyên”) cộng với gia quyến không biết đạo lý, cứ khóc lóc, thở than khiến trong tâm người niệm Phật khởi lên nhiều phiền não, chính sự khóc lóc đó là “duyên” làm chướng ngại cho tâm niệm người vãng sinh. Trường hợp này gọi là có nhân nhưng không gặp thiện duyên nên không thể vãng sinh được.
Lại có người bình thường tín nguyện niệm Phật tha thiết, đến giờ phút lâm chung được sự trợ duyên rất tốt, lại gặp được thiện hữu tri thức khai thị và trợ niệm (có “duyên”), cộng gia quyến không khóc lóc làm xao động. Nhưng vì tự tâm của người niệm Phật lại sinh điên đảo, tham luyến thế gian, cho đến quyến luyến con cháu, của cải, vì thế không phát khởi tâm nguyện cầu sinh Tây phương Cực Lạc (không “nhân”). Bởi vậy theo tâm niệm ái dục mà đi đầu thai vào các đường thiện ác. Ðây gọi là có “duyên” mà không “nhân” nên không thể vãng sinh được.
Lại có người bình thường niệm Phật chỉ cầu cho gia đình bình an hạnh phúc thọ mệnh lâu dài v.v... Nhưng do vào giờ phút lâm chung chỉ sợ chết, như có bệnh mà chưa đến giai đoạn trầm trọng, tuy cũng có niệm Phật nhưng chỉ muốn cầu bệnh mau lành, chứ không cầu sinh Tây phương Cực Lạc (không “nhân”). Khi đến giai đoạn bệnh trầm trọng, bấy giờ các khổ não đau đớn hiện hành không thể niệm Phật, chỉ than trời trách đất, kêu mẹ gọi cha. Lại vì gia quyến không tin Phật pháp, hoặc có tin nhưng không hiểu rõ lý nghĩa Kinh Phật, lại không gặp được thiện hữu khai thị và trợ niệm (không “duyên”) đây là cả nhân lẫn duyên không đầy đủ nên không thể vãng sinh vậy.
Hỏi: Người tu niệm Phật vào giờ phút lâm chung thế nào gọi là đầy đủ nhân duyên có thể vãng sinh Cực Lạc?
Ðáp: Như có hạng người có căn cơ rất lớn, lúc bình thường hết sức tin sâu nguyện thiết niệm Phật, tín nguyện lại tha thiết, công phu niệm Phật lại thuần thục, đến giờ phút lâm chung không cần người trợ niệm, mà tự họ có thể tín nguyện niệm Phật như bình thường, không có một mảy may tưởng khổ vui... làm xao động, mà niệm niệm luôn an trụ vào hồng danh, A DI ÐÀ PHẬT vì vậy trong Kinh A Di Ðà Phật nói: “Nhất tâm bất loạn, tức được vãng sinh” là vậy (“nhân” của tâm niệm tự lực cảm ứng với “duyên” cảnh giới của Phật) đây là ý nghĩa đầy đủ nhân duyên vậy.
Lại có người bình thường tu niệm Phật tin sâu nguyện thiết, nhưng công phu chưa thành thục, vào giờ phút lâm chung, lòng tín nguyện cầu sinh Tây phương lại càng tha thiết, không bị các bệnh khổ hoặc nghiệp chướng phiền não làm dao động. Lại gặp được thiện hữu tri thức khai thị, được sự trợ niệm. Nhờ thế nên tâm của người bệnh niệm niệm an trụ vào nơi hồng danh A Di Ðà Phật mà được vãng sinh. (“nhân” của tự lực cộng “duyên” tha lực)
Lại có hạng người, bình thường không biết tín nguyện niệm Phật cầu sinh Tây phương. Nhưng đến giờ phút lâm chung lại gặp được thiện hữu tri thức khai thị, nói đến sự vui sướng cùng sự trang nghiêm thanh tịnh của thế giới Tây phương, và 48 lời nguyện tiếp dẫn chúng sinh niệm Phật của Phật A Di Ðà khiến cho tâm người bệnh trở nên hoan hỷ, tâm sinh chánh tín niệm Phật, phát nguyện vãng sinh. Cho đến quyến thuộc không khóc lóc hỏi han lại được sự trợ niệm mà người bệnh được vãng sinh.
Hỏi: Người bình thường chưa biết tín nguyện niệm Phật, đến giờ phút lâm chung, gặp được thiện hữu khai thị sinh tâm hoan hỷ, tín nguyện, phát nguyện niệm Phật cầu sinh Tây phương, cho đến gia quyến không khóc lóc, lại được sự trợ niệm liền được vãng sinh. Sự việc trên nói sao mà dễ dàng như vậy?
Ðáp: Xin giải thích rõ sự việc người bình thường chưa tín nguyện cầu sinh Tây phương là vì không biết đến giờ phút lâm chung được thiện hữu tri thức khai thị mà sinh tâm hoan hỷ quyết định tín nguyện niệm Phật cầu sinh Tây phương. Người này đời trước đã có căn duyên là “nhân” thù thắng cộng thêm nhân thù thắng được sự thiên hữu khai thị, và trợ niệm. Lại có nguyên lực từ bi của Phật A Di Ðà. Nhân duyên hòa hợp lại, đến giờ phút lâm chung nhất định được vãng sinh, điều này còn có thể nghi ngờ được hay sao?
Hỏi: Chúng tôi là hàng Phật tử tại gia. Nếu đến giờ phút lâm chung của thân nhân, đối với Phật pháp, chưa từng biết, tuy có khai thị nhưng chẳng hiểu phương pháp trợ niệm. Xin hỏi trong Kinh sách có dạy phương pháp trợ niệm nào mà dễ hiểu, dễ học tập hay không?
Ðáp: Nếu chúng ta có tâm thành thật, muốn tu hạnh từ bi, hiếu thuận, thương yêu những người quyến thuộc muốn họ thoát khỏi khổ đau của luân hồi sinh tử, được vãng sinh về Tịnh độ xin chỉ cần y theo những điều hướng dẫn dưới đây thì nhất định thành tựu.
NHỮNG VIỆC MÀ GIA QUYẾN CỦA NGƯỜI SẮP LÂM CHUNG CẦN CHÚ Ý
1.- Cha mẹ là người có công sinh thành dưỡng dục vì thế chúng ta phải luôn hiếu thuận, còn đối với anh, chị, em... là người cùng huyết thống nên phải thương yêu. Như vậy thế nào được gọi là hiếu thuận, thương yêu, thế nào được xem là bất hiếu, không hiếu thuận? Người được gọi là hiếu thuận là thương yêu, trước tiên người đó đối với mọi sự tình hết sức nhẫn nhịn hòa thuận, trên kính dưới nhường, biết chăm sóc quan tâm, yêu thương giúp đỡ đối với gia quyến... bằng ngược lại thì được xem là đại ngỗ nghịch. Cách tốt nhất là người này biết hướng dẫn gia quyến quy y Tam Bảo, tu tập thiện pháp thì lợi lạc vô cùng.
2.- Theo Phật pháp đến giờ phút sắp lâm chung là giây phút rất quan trọng của một kiếp người. Chúng ta là gia quyến, đối với giây phút ngắn ngủi ấy nên đối xử hết sức hiếu thuận và đầy lòng thương yêu đối với họ, dù họ có đòi hỏi hay yêu cầu bất kỳ việc gì nhất nhất tùy thuận theo ý tứ của họ, không nên để tâm họ sinh một mảy may phiền não nào.
3.- Khi có người thân sắp lâm chung, nếu có hội trợ niệm nên mời họ đến. Lúc họ đến những người trong gia quyến phải tuyệt đối tuân theo sự hướng dẫn của họ, không nên có mảy may nào làm theo ý riêng của mình. Trường hợp những nơi không có ban trợ niệm thì gia quyến có thể tự trợ niệm cũng được, chỗ cốt yếu là đúng theo Phật pháp. Ðiều quan trọng cần tuân theo là làm ma chay không nên sát sinh mà làm tổn giảm phước đức vãng sinh của người niệm Phật. Nếu muốn cho người vừa mất được sinh về cõi lành, điều tốt nhất là gia quyến cùng nhau ăn chay trong thời gian này. Khi bệnh họ trở nên nặng thì chỉ lo trợ niệm, tuyệt đối không nên cho uống nhân sâm hay thuốc bổ hồi sinh vì làm như vậy rất chướng ngại cho sự vãng sinh.
4.- Phải biết rằng khi một người lâm chung họ sẽ theo một trong bảy con đường sau đây: Ba đường dữ: Ðịa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Ba đường lành: Trời, Người, A tu la và một đường Thánh đạo là Tây phương Cực Lạc. Vì vậy gia quyến nên nhận thức rằng chúng ta trợ niệm là để cho người quá vãng được vãng sinh Cực Lạc thọ hưởng sự vui sướng hạnh phúc. Nếu chúng ta khóc lóc, kêu réo, thở than thì làm cho họ rơi vào sáu nẻo luân hồi chịu mãi thống khổ.
5.- Nên biết rằng trong kinh Phật dạy hết sức rõ ràng. Nếu bị đọa lại vào ba đường dữ thì thọ nhận sự khổ đau không cùng tận. Nhất là cõi địa ngục, một ngày một đêm ở đó người ta phải chịu chết đi sống lại muôn vạn lần, còn cái khổ của ngạ quỷ kéo dài cả trăm vạn kiếp, nước uống không thể được nói gì đến việc ăn. Nếu lỡ rơi vào ba đường khổ này, thì chịu khổ ít nhất năm ngàn đại kiếp, mỗi một đại kiếp như vậy có 34.384 vạn năm. Thật là một thời gian dài vô cùng tận. Ngược lại thân nhân được về Tây phương thì mỗi ngày đều được nghe Phật A Di Ðà thuyết pháp, được gần Ðại Thế Chí Bồ Tát, Quan Âm Bồ Tát cùng các bậc Thánh hiền, lại được thấy các sắc tướng trang nghiêm, được nghe âm thanh thuyết pháp tuyệt diệu, ngoài ra còn hưởng được nhiều điều hạnh phúc sung sướng khác.
6.- Nếu người bình thường đã có tâm nguyện niệm Phật cầu sinh Tây phương điều này rất tốt. Bằng ngược lại thì quyến thuộc nên vì người bệnh mà thuyết giảng rõ ràng: “Nếu đọa lạc vào ba đường ác thì khổ não vô vàn, còn được sinh về Tây phương thì rất an lạc, vĩnh viễn không đọa lạc vào ba đường dữ, phước đức người sinh ở đó không thể nghĩ bàn. Nên khai thị với họ rằng: “Nếu ông (bà) phát tâm niệm danh hiệu A Di Ðà Phật, tin sâu nguyện thiết cầu sinh Tây phương. Ðến giờ phút lâm chung, Ðức Phật tay cầm đài sen hiện ra trước mắt tiếp dẫn vãng sinh về Tây phương, nơi ấy được hưởng an vui không hề còn sinh tử luân hồi. Nếu ông (bà) quyết định niệm Phật thì chắc chắn được vãng sinh. Mỗi ngày những người thân nhân nên vì họ mà nhắc lại ba lần như vậy, không nên nói nhanh hay gấp gáp mà từ từ hòa diệu chầm chậm khuyên họ. Ðiều quan trọng chúng ta phải hiểu được tâm người bệnh, điều hết sức e dè và ngần ngại là đừng để họ khởi tâm phiền não. Ðối với trường hợp người bệnh đã có tin sâu nguyện thiết niệm Phật, hãy để họ nằm yên, không nên hỏi han, hay than khóc mà chỉ cần khuyên họ nhất tâm niệm Phật, cầu sinh về Tây phương là được.
7.- Nếu người bệnh có việc quan trọng cần nói cho quyến thuộc nhưng do bệnh tình không thể. Do đó gia quyến nên hiểu rõ tâm thức của họ đến trước họ hỏi họ cần căn dặn điều gì hay không, trường hợp người bệnh tâm thần quá mê muội thì không nên hỏi han mà làm rối loạn tâm ý của họ, làm họ mất đi chánh niệm (chánh niệm là chỉ cho sự niệm Phật). Còn đối với trường hợp tâm thần người bệnh còn minh mẫn nên đến trước họ mà nói rằng: “Hãy yên lòng, tất cả các việc trong gia đình đã có người đảm đang. Ông (bà) (người lâm chung) hãy nhất tâm niệm Phật cầu sinh Tây phương”. Mỗi ngày nên vì họ nói như vậy, nếu tâm thức của họ ngày càng trở nên mê mờ chỉ cần chuyên môn trợ niệm cho họ.
8.- Nếu có thân hữu bà con đến thăm viếng người bệnh, trước tiên nên nói cho họ biết người sắp lâm chung tâm niệm vô cùng quan trọng vì vậy xin họ đừng nên nói hay làm gì mà có thể chướng duyên cho vấn đề vãng sinh của người bệnh.
9.- Nếu người bệnh do nghiệp chướng hiện tiền, không hoan hỷ và chán ghét người niệm Phật, nghe người trong nhà niệm Phật trong lòng khó chịu, hoặc thấy quỷ thần hiện đến dẫn dắt. Ðây là do người đó nghiệp chướng phát hiện, làm chướng ngại cho việc vãng sinh. Vì thế quyến thuộc nên vì họ đến trước Phật tiền niệm Phật sám hối thay thế cho họ, khiến họ nghiệp chướng được tiêu trừ, vãng sinh Tịnh độ. Ví như năm ngoái có một cư sĩ mà mẹ cư sĩ này lâm bệnh sắp chết. Người này thỉnh đoàn trợ niệm đến nhà trợ niệm. Bà ta nghe niệm Phật, tâm lý khó chịu khởi lên cho rằng những người trợ niệm tâm không chuyên chú. Lúc bấy giờ có một vị cư sĩ quy y Sư phụ (tác giả) biết được bà này do nghiệp chướng khởi đến nên đem Kinh Ðịa Tạng đọc tụng sám hối thay thế hết sức thành khẩn, lại vì bà mà niệm Phật, khiến cho tâm bà ta vô cùng hoan hỷ niệm Phật mà vãng sinh Tịnh độ. Phần trên có nói là đọc tụng Kinh Ðịa Tạng có thể tiêu trừ nghiệp chướng oan gia, giả như không thể đọc tụng được thì chỉ niệm danh hiệu của ngài cũng có thể tiêu trừ nghiệp chướng. Lại có một vị cư sĩ cha lâm bệnh lúc gần chết, thấy có một người đàn bà và một con chó đến đòi mạng. Vị cư sĩ này liền thay cha mà niệm Phật và sám hối, về sau chẳng thấy hình ảnh trên đến nữa, mà ngược lại cha cư sĩ lại thấy hai vị tăng đến trước ông mà nói rằng “Ðời trước ông làm trở ngại việc vãng sinh của chúng tôi, nên nay chúng tôi cũng làm ngăn trở việc vãng sinh của ông”. Một lần nữa cư sĩ này lại thay cha tiếp tục sám hối niệm Phật, đồng thời cầu nguyện cho hai vị tăng cũng như cha mình được vãng sinh. Nếu trường hợp cha ông được vãng sinh thì sẽ trở lại trợ giúp cho hai vị tăng được vãng sinh để sám hối lỗi lầm xưa kia ông đã tạo, khoảng một thời gian sau, thì cha vị cư sĩ này không còn thấy hai vị tăng đến nữa. Sau cùng ông lại thấy một vị lão tăng đến và nói: “Ông đã được tiêu trừ tội chướng, trong vòng ba thất sẽ được vãng sinh vào cấp thứ năm của chín phẩm”. Lại nói tiếp: “Sở dĩ vì ba thất là do con ông biết đạo, trong ba thất đầu tức là 21 ngày, gia đình của ông trợ niệm rất nhiều cho ông, khi hết 21 ngày thì ông được vãng sinh vào địa vị thứ năm của chín phẩm hoa sen tức là Trung phẩm Trung sinh”. Hãy lấy đó mà suy nghĩ kỹ, quyến thuộc chỉ thay thế người bệnh sám hối và niệm Phật, hoặc đọc tụng Kinh Ðịa Tạng, hoặc niệm danh hiệu A Di Ðà Phật mà có công năng như vậy.
10.- Nếu người bệnh sắp đến giờ phút tắt thở và đã có nhiều người trợ niệm, quyến thuộc nên đến trước bàn Phật, hoặc quỳ, hoặc đứng niệm một cách chí thành khẩn thiết cầu Phật từ bi tiếp độ hương hồn của người quá vãng được về Tịnh độ. Nếu người trợ niệm quá ít hoặc chẳng có thì thân nhân nên đến bên cạnh người bệnh mà niệm Phật, tuyệt đối không nên đứng đối diện trước mặt người bệnh. Vì sao? Vì chính thời điểm này, nếu người thân thấy được bệnh nhân khó mà tránh được khóc lóc, thương yêu, làm phương hại cho chánh niệm của người bệnh. Tốt nhất là thân nhân nên đứng hai bên, hoặc ngồi phía sau bệnh nhân, cố gắng niệm Phật, tuyệt đối là không được khóc lóc, kêu réo. Nếu bệnh nhân nghe được liền khởi sự luyến ái, đau thương buồn rầu làm mất đi chánh niệm niệm Phật. Nếu mất chánh niệm rồi thì chắc chắn không được vãng sinh Tây phương. Vậy vào giây phút này, chúng ta là những người thân nhân nên hết sức cẩn thận, hết sức chú ý, tuyệt đối không được khóc than mà nên lớn tiếng niệm Phật, từng câu, từng chữ thật rõ ràng. Nhờ vào sự trợ niệm của thân nhân cộng với bi nguyện của Phật A Di Ðà sẽ gia hộ cho người bệnh thân tâm an lạc chánh niệm rõ ràng, nhanh chóng vãng sinh Tây phương.
11.- Sau khi người chết đã tắt hơi thở, nhưng thi thể chưa hoàn toàn lạnh hẳn. Thì quyến thuộc nên tiếp tục lớn tiếng niệm Phật trợ niệm cho vong nhân, không nên khóc lóc. Ðồng thời không để ruồi muỗi đậu lên thi thể, vì lúc này thần thức chưa rời khỏi thể xác, giả sử có một vật gì chạm vào thân thể thì họ cảm thấy đau đớn vô cùng. Có một số người thường hay khám xét thân thể người chết để xem thử người bệnh sẽ đi về đâu, điều này không có lợi ích gì mà có hại rất lớn đối với người chết. Vào giây phút quan trọng này, đối với gia quyến nên thỉnh ban hộ niệm đến trợ giúp, nếu họ chưa đến kịp nên y theo phương pháp trợ niệm mà thực hành, trường hợp họ đến rồi nên tuân theo mọi sự chỉ giáo của họ, không nên tùy tiện làm theo ý kiến riêng tư. Tuyệt đối đừng nên tuân theo những tập tục mê tín vô căn cứ của thế gian. Họ thường nói: “Phàm là người chết thi thể còn nóng, khớp xương còn mềm mại nên thay y phục cho họ.” Lại có quan niệm cho rằng, nếu người chết rồi lo liệm ngay nếu không sẽ mắc nợ miên sàng. Lại một quan niệm là người nhà mất là phải khóc lớn để đẩy lùi hung khí, trên đây là những quan niệm mê tín, tương truyền cho đến ngày nay, nó có hại cho người thân chúng ta. Chính nó đã khiến cho nhiều người quyến thuộc chúng ta khi mất phải chịu oan uổng nhiều khổ não, để rồi phải rơi vào ba đường ác đạo: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.
Xưa có một vị vua tên là A Kỳ Ðạt bình sinh tin phụng Phật pháp bố thí xây dựng chùa tháp công đức to lớn vô cùng. Thế nhưng vào giờ phút lâm chung, vị quan phục vụ cho ông nhân vì nhiều ngày chưa ngủ, tinh thần yếu đuối trong khi hầu hạ cho ông, vô tình lấy tay quạt mạnh vào người ông, làm cho vị vua này cảm thấy đau đớn, tâm sinh sân hận, sau khi thân thể rời khỏi thể xác vì tâm sân hận này mà thác sinh thành một con mãng xà, có một vị cao tăng biết được những công đức của vị vua này tạo tác, và có lòng tin sâu Tam Bảo, nên vì mãng xà thuyết pháp. Nhân vì nghe pháp được phước đức, ba ngày sau mãng xà qua đời, thần thức liền được sinh cõi trời. Lại một trường hợp khác. Xưa có một đôi vợ chồng, sống rất thương yêu hòa thuận, bình thường cũng tin theo Phật pháp, ăn chay giữ giới. Một ngày nọ người chồng bỗng nhiên qua đời. Người vợ vô cùng đau đớn khóc than thảm thiết. Tuy thân thể người chồng đã chết nhưng thần thức vẫn chưa rời khỏi thể xác, nghe âm thanh than thở của vợ mà tâm ông sinh luyến ái, sau khi thần thức rời khỏi thể xác. Vì tâm niệm luyến ái đó ông liền hóa sinh thành một loại sâu sống trong lỗ mũi của bà. Một thời gian sau bà cảm thấy khó chịu, phát hiện trong mũi mình có con sâu nên muốn lấy nó ra mà giết. Nhân đó có một vị cao tăng gọi bà ta mà bảo: “Hãy thương xót chồng bà”. Bà ta kinh sợ hỏi nhân duyên vì sao? Vị tăng nói: “Chồng bà bình thường giữ giới phụng trì Tam Bảo đáng lẽ phải sinh thiên. Nhưng vì do bà khóc lóc, làm cho tâm chồng bà sinh luyến ái nên đọa làm con sâu sống trên thân bà như vậy!”. Nghe nói như vậy bà thấy thương xót vô cùng, thỉnh cầu vị tăng nên vị chồng bà mà nói pháp. Nhân vì nghe được Phật pháp, sau đó con sâu qua đời được sinh về thiên giới.
Qua hai câu chuyện trên đều do Kinh nói hoàn toàn có căn cứ. Ðối với các tập tục cổ hủ nói ra thì hoàn toàn không có bằng chứng. Chúng tôi nhân vì chỗ mê tín dị đoan mà mạnh dạn nói ra sự thật miễn sao cho người mất về sau không còn đọa vào ba đường ác nữa. Vì thế sau khi người chết vừa qua đời, thân thể chưa hoàn toàn lạnh hẳn. Chúng ta là người gia quyến, nhất định không được khóc lóc và chạm vào thân thể người mất. Ðiều tốt nhất nên theo sự chỉ đạo của đoàn trợ niệm. Trường hợp không có đoàn trợ niệm thì gia quyến hết sức cẩn thận và nhẹ nhàng êm dịu phải xem đến lúc nào thi thể lạnh hẳn mới bắt đầu thay y phục tắm rửa cho người mất.
TRỢ NIỆM VẤN ÐÁP
Hỏi: Xin cho biết ý nghĩa của hai chữ “trợ niệm”?
Ðáp: Trợ: là giúp đỡ. Niệm: là chánh niệm, nghĩa là cùng nhau hợp lại trợ giúp cho người lâm chung chánh niệm hiện tiền.
Hỏi: Thế nào là “chánh niệm”?
Ðáp: “Chánh niệm” hay nói đúng hơn là “Tịnh niệm” đều chỉ cho tâm nhớ Phật và niệm Phật, không cùng lục trần tiếp xúc, chính vì nhân tâm niệm Phật nên dẫn đến duyên tâm thanh tịnh, mà chính cái duyên thanh tịnh dẫn đến vãng sinh nên gọi là chánh niệm.
Hỏi: Vì sao người lâm chung cần người khác trợ niệm?
Ðáp: Lúc con người đến giờ phút sắp lâm chung là lúc tứ đại phân ly, các khổ não bắt đầu bức bách, tay chân co rút nên người xưa thường so sánh như cái khổ của con cua rơi vào chảo nước sôi vậy. Bình thường có công phu niệm Phật nếu chưa thuần thục đến giờ phút quan trọng này, ai mà không cần trợ giúp? Bình thường nếu người lâm chung có công phu niệm Phật khoảng 6, 7 phần thì đến giây phút này thì sự dụng công cao lắm là 2, 3 phần thôi. Hà huống gì là người bình thường không có công phu lại không cần trợ niệm hay sao? Chỗ cần hiểu là người lúc lâm chung chỉ có mảy may làm chủ chính mình, mà hoàn toàn nương theo sự trợ giúp của người khác niệm Phật.
Hỏi: Khi người bệnh đã tắt thở rồi vì sao người trợ niệm cần phải niệm Phật?
Ðáp: Bởi vì tuy người bệnh đã chết, tuy hơi thở không còn, song thần thức của người đó vẫn chưa hoàn toàn lìa khỏi thể xác, chỗ tái sinh của họ vẫn chưa được quyết định, cho nên sự trợ giúp cho người mất niệm Phật có công dụng vô cùng thù thắng. Chúng ta từ đời vô thỉ kiếp đến nay đã tạo các ác nghiệp và thiện nghiệp vô lượng vô biên, niệm ác này qua thì niệm thiện liền đến niệm niệm tương tục không gián đoạn, niệm ác thì chiếm phần lớn, còn niệm thiện vô cùng ít ỏi. Con người đến lúc lâm chung tâm niệm vô cùng quan trọng, nếu khởi niệm ác thì liền rơi vào ba đường ác, còn khởi niệm thiện thì cảnh giới thiện hiện ra, sau đó tùy nơi mà sinh vào hoàn cảnh thiện. Nếu người biết khởi tín tâm niệm Phật cầu sinh Tây phương liền thấy Phật A Di Ðà cùng thánh chúng hiện ra tiếp dẫn, nhân đó mà được vãng sinh Tịnh độ. Tóm lại việc cốt yếu của việc trợ niệm là tạo cho người lâm chung chánh niệm niệm Phật để vãng sinh. Một khi đã vãng sinh thì vĩnh viễn xa rời thế giới sinh tử Ta Bà mà hưởng vô lượng sự vui sướng thù thắng ở Cực Lạc. Vì vậy sự trợ niệm vào giờ phút lâm chung vô cùng thù thắng.
VẤN ÐỀ NHẤT NIỆM VÃNG SINH TÂY PHƯƠNG
Hỏi: Thế giới Tây phương Cực Lạc xa đến mười vạn ức cõi Phật. Người lâm chung niệm Phật làm sao một niệm mà vãng sinh về đó được?
Ðáp: Người niệm Phật đến giờ phút lâm chung nhất niệm vãng sinh Tây phương. Nhân vì ba sức mạnh không thể nghĩ bàn.
Một là Phật lực: Ðức Phật với lòng đại từ, đại bi, cùng với 48 lời nguyện nhiếp thọ chúng sinh tín nguyện niệm Phật được vãng sinh Tây phương.
Hai là Tâm lực: là sức nguyện của tâm tha thiết của chúng ta. Tâm lực lại có ba nghĩa:
1. Tâm thể: Là bản thể thanh tịnh của tâm, tâm thể này cùng với chư Phật không mảy may sai khác. Chỉ vì chư Phật thường thường giác ngộ không mê muội như chúng sinh, lìa trần hợp giác, tâm thanh tịnh, vốn đầy đủ vô lượng công đức trí tuệ, chúng sinh thì ngược lại thường mê không ngộ, lìa giác hợp trần, tâm đầy dẫy nhơ nhớp, đầy đủ vô số phiền não và nghiệp cảm. Nếu chúng ta có thể phát khởi tâm niệm Phật, thì giờ phút niệm Phật ấy là lìa mê mà quay về tịnh giác, tức là hiệp giác.
Lúc đó vô lượng các phiền não và nghiệp cảm trở nên thanh tịnh, khiến phát sinh vô lượng công đức và trí tuệ, tâm thể niệm Phật trở nên đồng với tâm thể của Phật. Cho nên cổ đức có nói rằng: “Nhất niệm tương ứng nhất niệm Phật. Niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”. Vậy Thánh nhân và phàm phu đồng một tâm thể, chư Phật và chúng sinh cũng vậy, niệm Phật là thành Phật, ví như việc nấu gạo là thành cơm vậy, đây là nói về sự.
2. Tâm lượng: tâm lượng thì rộng lớn vô biên. Trong Kinh có nói: “Tâm bao quát cả thái hư, dung chứa vô lượng thế giới”. Vì sao tâm lượng lại rộng lớn như vậy? Trong Kinh có nói: “Trong vũ trụ không thể kể hết các thế giới sát vi trần số thế giới của chư Phật. Một trong các thế giới đó có một thế giới tên gọi là Phổ Chiếu Sí Nhiên Bảo Quang Minh. Thế giới này lại có 20 cõi thế giới, thế giới Ta Bà chúng ta cách thế giới Cực Lạc 10 vạn ức cõi Phật. Khoảng cách này tương đồng với tầng thứ 13 của thế giới Phổ Chiếu Sí Nhiên Bảo Quang Minh so với Ta Bà thế giới. Ðiều này cho thấy chỉ có một thế giới lớn lao như vậy, hà huống gì cả sát na vi trần cõi nước của chư Phật lại lớn lao biết chừng nào! Hằng hà các thế giới ở trong thái hư, mà vũ trụ thường ở tại tâm lượng của mỗi người. Ðiều này ta thấy tâm lượng của mỗi người rộng lớn vô biên, hàm chứa cả vũ trụ và nhiều thế giới khác. Như vậy đối với người niệm Phật vào giờ phút lâm chung chỉ một niệm vãng sinh Tây phương là điều hoàn toàn không còn nghi ngờ.
3. Tâm đầy đủ: Một niệm của tâm đầy đủ mười pháp giới: Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, Trời, người, A tu la, ngạ quỷ, súc sinh, địa ngục. Mười pháp giới này chỉ trong một tâm niệm của chúng ta mà tạo thành nó. Nếu tâm niệm tạo thập ác thì rơi vào ba đường dữ, nếu tạo tâm niệm thập thiện thì rơi vào ba đường lành: Trời, Người, A tu la. Nếu niệm Phật A Di Ðà thì về với cõi Phật. Vì thế trong Kinh có nói: “Nếu tâm nghĩ Phật thì tâm là Phật”. Ta có thể đổi câu trên lại: “Nếu tâm nhớ nghĩ chúng sinh thì tâm là chúng sinh”. Cho nên nếu tâm ta nghĩ Phật, nhớ Phật thì làm Phật, tâm niệm Phật sẽ thành Phật vậy thôi. Chỗ quan trọng là chúng ta phải biết được tâm thể chúng ta vốn đầy đủ công đức trí tuệ như Phật. Nếu niệm Phật thì chắc chắn thành Phật. Ðã hiểu được như vậy thì không còn nghi ngại gì cả. Tuy phân thành ba loại như vậy nhưng ba tâm: tâm thể, tâm lượng và tâm đầy đủ, không thể lìa nhau mà có, mà chúng nương nhau. Trong mỗi tâm đều có hai mặt hai tâm kia và ngược lại, Do tâm có công dụng diệu ngộ như vậy nên không thể nghĩ bàn được.
Ba là pháp lực: Là sự cảm ứng đạo giao không thể nghĩ bàn. Phàm là người niệm phải tin sâu, nguyện thiết, hành chuyên, cộng với ba lực: Phật lực, pháp lực, tâm lực chúng sinh thì hợp lại không thể nghĩ bàn.
Như vậy việc người lâm chung niệm Phật một niệm có thể vãng sinh Tây phương là điều không còn nghi ngờ gì nữa.
NHỮNG ÐIỀU MÀ NGƯỜI TRỢ NIỆM CẦN PHẢI BIẾT
1.- Phát tâm trợ niệm giúp người khác được vãng sinh Tây phương là việc thay thế chư Phật rộng độ chúng sinh thoát khỏi sinh tử luân hồi, là việc vô cùng lớn lao. Công đức này không thể nghĩ bàn. Vì vậy phải hết sức cẩn thận nếu không sẽ làm mất đi nhân duyên vãng sinh của người lâm chung! Xin hãy cẩn thận! Xin hãy cẩn thận!
2.- Khi đến nhà người lâm chung, trước tiên hãy mời toàn thể gia quyến đến để nói cho họ biết đây là thời điểm vô cùng quan trọng của người lâm chung. Vì họ đang ở ngưỡng cửa của siêu thăng hay đọa lạc. Trách nhiệm này là của toàn thể gia quyến, nếu gia quyến muốn người lâm chung được siêu thăng không đọa lạc thì mỗi mỗi sự việc đều tuân thủ theo sự chỉ đạo của ban hộ niệm, không được làm điều gì trái lại, đó là việc để người lâm chung nhất định được vãng sinh Tịnh độ.
3.- Khi vào trong phòng người bệnh, ban hộ niệm phải có thái độ thành khẩn, lời nói ôn hòa, để người bệnh nghe được tâm lý không hoài nghi. Trước tiên nên ôn lại và tán thán những việc lành mà bình thường người bệnh đã tạo, khiến cho tâm họ phát khởi sự hoan hỷ, kế đến nói về công đức và bốn tám lời nguyện của Phật A Di Ðà, cùng cõi Cực Lạc vui sướng, làm cho người bệnh sinh vui mừng và phát khởi chánh tín cầu sinh Tây phương. Người trợ niệm nên xem người bệnh như thể người quyến thuộc để có thể có tâm thành khẩn tha thiết. Tuy nhiên, đời nay tuy không phải quyến thuộc của họ mà có thể đời trước, hoặc nhiều đời trước họ đã từng là quyến thuộc của chúng ta. Vì vậy trong Kinh Phạm Võng có nói: “Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta”, điều này bằng con mắt phàm phu chúng ta trong đời sống hằng ngày không thể nhận ra được, chớ hoàn toàn giữa ta và người bệnh lại không có quan hệ hay sao?
4.- Trong phòng người bệnh, ngoại trừ người khai thị ra, không để một lời nói hay một người nào ở lại, không được nói chuyện tạp gì vì khi họ nghe được làm phân tâm, mất đi chánh niệm. Nếu như có bà con thân quyến đến thăm nom thì người trợ niệm nên hỏi họ: “Có phải anh (chị) đến đây vì trợ niệm hay không?”. Nếu họ bảo phải thì mời họ cùng trợ niệm. Bằng không thì gia quyến phải nói rõ cho họ biết để khỏi mất lòng, nên mời họ đến phòng khách tiếp đãi vì khi người bệnh thấy được họ chắc chắn sinh ra sự luyến ái làm mất chánh niệm. Ðây là trách nhiệm của người trợ niệm, không nên vì sợ mất lòng, vì làm chướng ngại cho sự chánh niệm của bệnh nhân, làm mất đi khả năng vãng sinh Tây phương. Ðiều này là hoàn toàn trái với bản hoài độ sinh của chư Phật, lại không thích hợp với tôn chỉ của người trợ niệm.
5.- Lúc trợ niệm hoặc niệm bốn chữ “A Di Ðà Phật” hoặc niệm sáu chữ “Nam mô A Di Ðà Phật”. Niệm nhỏ hay lớn, thấp hay cao nên hỏi qua người bệnh là tốt hơn cả. Nếu như bệnh nhân bị cấm khẩu, vậy thì không nên niệm Phật quá nhanh, nếu nhanh thì nghe không rõ ràng, cũng không nên quá chậm vì chậm sẽ gây nên hôn trầm, cũng không nên quá cao, nếu cao thì người trợ niệm không thể trì niệm lâu dài và cuối cùng cũng nên đừng thấp quá, nếu thấp quá sẽ nghe không rõ ràng. Vì vậy người trợ niệm nên niệm không cao, không thấp, không nhỏ cũng không to, mà nên niệm từng câu, từng câu rõ ràng, từng chữ từng chữ khoan thai, khiến cho thần thức người bệnh nghe từng chữ từng câu rõ ràng. Niệm Phật như vậy mới là chân chính trợ niệm. Không nên tùy tiện theo ý nghĩ riêng mà niệm, lúc thì cao, lúc thì thấp, lúc nhanh lúc chậm, trợ niệm như vậy thì người bệnh không lợi ích chi. Tóm lại, chúng ta phải hiểu rằng nguyên nhân trợ niệm cho người lúc lâm chung vì họ khí lực cạn kiệt suy sụp không thể tự mình khởi lên ý niệm nhân duyên niệm Phật mà họ hoàn toàn nhờ vào sự trợ giúp của tha nhân niệm hồng danh A Di Ðà Phật. Vì vậy chúng ta cần phải niệm rõ ràng, làm cho tâm người bệnh, niệm niệm quay về an trú trong câu niệm Phật, luôn luôn thấy rõ hết thảy sự việc, và luôn chánh niệm. Niệm niệm tương tục không gián đoạn, đến lúc lâm chung nhất niệm niệm Phật, liền được vãng sinh. Ðây cũng là trách nhiệm chung của chúng ta thay thế Ðức Phật nhiếp độ chúng sinh thoát khỏi sinh tử luân hồi.
6.- Có khi trợ niệm trong một thời gian đã lâu, bỗng nhiên người bệnh tinh thần trở nên tỉnh táo, hoặc có thể nói chuyện, hoặc than thở, hoặc cơ thể có thể hoạt động và nhiều dấu hiệu khác. Trong trường hợp này người trợ niệm nên biết đây là dấu hiệu cho thấy trong vòng khoảng 2 giờ nữa họ sẽ tắt thở. Ví như một ngọn đèn dầu, dầu trong đèn từ từ cạn thì ánh sáng cũng do đó từ từ mà tắt. Nhưng trước khi dầu hoàn toàn hết thì tự nhiên ngọn đèn bùng lên trong giây lát rồi mới tắt. Thỉnh thoảng nghe nói có trường hợp người bệnh như trên, vì người trợ niệm chưa có kinh nghiệm nhận thức nên ngừng việc trợ niệm, trường hợp này hết sức nguy hiểm. Vì vậy chúng ta là những người trợ niệm cần nhận thức rõ vấn đề nêu trên.
7.- Khi ban trợ niệm vừa mới đến nơi mà gặp trường hợp bệnh nhân vừa mới tắt thở hoặc đã tắt thở trước đó một, hai hoặc ba tiếng đồng hồ, người trợ niệm nên biết đây là giây phút vô cùng quan trọng, tốt nhất trước tiên lớn tiếng khai thị, sau đó mới bắt đầu trợ niệm. Vì sau khi người bệnh tắt thở, không luận là thân quyến có khóc hay là không, tâm họ luôn luôn rối loạn. Nếu lớn tiếng khai thị tâm của họ, có thể biết được do hai nguyên nhân sau :
1.- Tâm người bệnh có quy y (quy vào danh hiệu Phật) nên biến phiền não thành chánh định. 2.- Cũng đã có phát nguyện cầu sinh Tây phương (tâm vui vẻ nghe danh hiệu là có thể sinh Tây phương).
Người khai thị nên lớn tiếng hướng dẫn họ như sau: “Hỡi ông (bà) gì! Mọi chuyện lành dữ trong quá khứ xin ông (bà) đừng nên suy nghĩ đến nữa, tài sản con cháu trong nhà hãy nên xả bỏ, không nên mảy may một niệm chạy theo, một lòng niệm Phật A Di Ðà để được vãng sinh sang cõi Cực Lạc. Tất cả chúng tôi sẽ niệm Phật trợ niệm cho ông (bà), ông (bà) nên dồn hết tâm lực nghe câu niệm Nam mô A Di Ðà Phật. Hãy an trụ vào đó mà vãng sinh Cực Lạc”. Sau khi khai thị xong là bắt đầu trợ niệm ngay. Nếu như người làm chung bình thường có tín nguyện niệm Phật cầu vãng sinh Tây phương thì nhất định được vãng sinh Tây phương. Nếu như bình thường có tín nguyện cầu sinh Tây phương thì nghe được danh hiệu trợ niệm thì công đức không thể nghĩ bàn. Như trong Kinh Ðịa Tạng có nói: “Người nào lúc lâm chung, nghe được một danh hiệu Phật, có thể tiêu trừ được trọng tội vô gián địa ngục”. Cho nên người trợ niệm vào giây phút lâm chung công đức niệm Phật thật lớn lao thay.
NHÂN QUẢ THÙ THẮNG CỦA NGƯỜI TRỢ NIỆM
Có nhân thì có quả, có quả thì tất phải có nhân. Chúng ta nếu có thể phát tâm trợ niệm cho người vào giờ phút lâm chung được vãng sinh Tịnh độ thì trong tương lai đến giây phút lâm chung của chúng ta thì tự nhiên có người phát tâm trợ niệm trở lại cho chúng ta được vãng sinh Cực Lạc. Chúng ta trợ niệm cho người là nhân, niệm Phật khiến người lâm chung được vãng sinh Tịnh độ là duyên. Trong tương lai người được chúng ta trợ niệm được vãng sinh, đến lúc lâm chung của chúng ta thì nhất định họ sẽ theo Phật A Di Ðà cùng đến tiếp dẫn, đồng thời dùng thần lực gia hộ cho chúng ta, khiến cho chúng ta không mất đi chánh niệm mà được vãng sinh Cực Lạc. Lại nữa, thường thường chúng ta hay đi trợ niệm cho người được vãng sinh, do đó những đặc điểm lợi hại lúc lâm chung, chúng ta thường biết rõ hơn ai hết, cho nên trong tương lai đến lúc lâm chung của chúng ta nhất định chúng ta có thể vận dụng những kinh nghiệm hiểu biết đó đúng theo pháp, không để phát sinh bất kỳ một sự việc nào làm cản trở việc vãng sinh của chúng ta.
Như chúng ta đã biết, Ðức Phật sở dĩ xuất hiện ra đời là độ thoát tất cả chúng sinh đều được thành Phật. Thích Ca Như Lai thuyết pháp 49 năm, Ðức Phật A Di Ðà phát 48 lời nguyện, trang nghiêm cõi Cực Lạc.
Tất cả những pháp môn khác trong Phật giáo đều nương vào tự lực. Người tu tập phải đoạn dứt hết tất cả các phiền não mới có thể thoát khỏi sinh tử thật là khó thực hành. Ðối với pháp môn Tịnh độ, Ðức Phật A Di Ðà có nguyện lực tiếp dẫn người niệm Phật vãng sinh Cực Lạc, mà không đoạn dứt phiền não mà vẫn thoát khỏi luân hồi sinh tử, thật là pháp môn dễ tu tập thay. Chúng ta hiện tại thường hay trợ niệm cho người được vãng sinh là đang thay thế cho chư Phật đảm nhiệm trọng trách độ thoát chúng sinh công đức thật lớn lao vô cùng. Ðây là cái nhân giúp cho chúng ta trong tương lai được vãng sinh vậy.
VẤN ÐỀ SẠCH SẼ TRONG PHÒNG NGƯỜI BỆNH
Trong phòng bệnh nhân nên quét dọn sạch sẽ, đối với những vật không cần thiết nên dọn đi, càng sạch càng trống càng tốt. Một là khỏi làm người bệnh động tâm, hai là tiện lợi cho việc ra vào của người trợ niệm thoải mải. Nếu bệnh nhân tâm thức còn tỉnh táo nên khuyên họ hướng về phía Tây, nằm kiết tường phía bên hông tay phải, tâm tưởng đến việc vãng sinh. Nếu như người bệnh bị bệnh khổ đau đớn bức bách, tâm không thể an định, thì mọi việc nên thuận theo họ chớ nên miễn cưỡng.
Nếu như người bệnh tự mình biết được làm sao mới có thể làm cho tâm an định làm sao mới có thể duy trì chánh niệm. Nên tùy theo tâm ý của họ. Trước giường nên thiết lập tượng Tây phương Tam Thánh hoặc tôn tượng Phật A Di Ðà. Trước tôn tượng cần phải cúng dường hương hoa quả phẩm. Tượng Phật nên cho quay về hướng đối diện với mặt người bệnh, để họ sinh tâm kính ngưỡng.
Nếu bệnh nhân có đại tiểu tiện thì thân quyến nên lau chùi sạch sẽ ngay. Khi bệnh nhân sắp tắt thở, trên thân của họ nếu có tiểu tiện dơ dáy thì chớ nên lau rửa, hãy lo niệm Phật trợ niệm, dù có hôi hám như thế nào thì người trợ niệm cần phải hiểu rằng việc trợ niệm là đảùm nhiệm trách nhiệm thay thế Như Lai độ chúng sinh thoát khỏi sinh tử là việc vô cùng quan trọng, há chỉ vì một chút duyên hôi hám mà bỏ đi trách nhiệm hay sao? Ðối với mỗi chúng ta đến lúc lâm chung thân thể hư hoại, ai có thể tự cho rằng mình không có sự nhơ nhớp? Nếu cứ nghĩ tưởng như vậy thì tâm chúng ta không còn quan tâm đến sự hôi hám nữa. Ðối với sự dơ bẩn trên thân người bệnh phải chờ đến khi thi thể lạnh hẳn toàn thân sau đó mới tắm rửa.
Ðối với tượng Phật đặt trước giường người bệnh nếu có dơ dáy cũng không được lau chùi, có thể chiếu cố vì sợ bệnh nhân lúc tắt thở mất chánh niệm nên mất đi cơ hội vãng sinh, điều này dù tượng Phật có dơ dáy cũng không mang tội.
PHÁ TRỪ NGHI CHƯỚNG
Nếu bệnh nhân bệnh tình nặng nề, nên hỏi họ xem còn vướng mắc việc gì hay không. Nếu có thì nên giảng giải, sớm giải quyết cho họ để không còn chướng ngại việc vãng sinh. Nếu bệnh nhân không có việc gì vướng mắc vậy thì nên hỏi họ một lần rồi sau đó không nên hỏi nữa, vì sợ làm phân tâm họ mất đi chánh niệm. Hãy chú ý, Chú ý!
Nếu bệnh nhân có sự nghi ngờ hỏi: “Tôi phát tâm niệm Phật, thời gian chưa được bao lâu, lại sợ nghiệp chướng tội nặng nề, không hiểu có được vãng sinh hay không?”. Nên trả lời với họ rằng: “Việc phát tâm niệm Phật sớm hay muộn không thành vấn đề, điều quan trọng từ khi phát tâm cho đến giờ phút lâm chung tâm không thối chuyển mới là quan trọng. Vậy đến lúc lâm chung của ông, gặp được nhân duyên thiện hữu khai thị, mới có thể phát tâm niệm Phật, điều này cũng tốt lắm. Trong Kinh Vô Lượng Thọ, Phật có nói: “Người bình thường tạo nghiệp chướng rất nhiều lại nặng nề đến giây phút lâm chung, gặp được thiện hữu khai thị, mới phát tâm niệm Phật, có thể vãng sinh Tây phương”. Trong Kinh này cũng có nói: “Niệm một câu A Di Ðà Phật có thể tiêu trừ 80 ức đại kiếp trọng tội!”. Cho nên việc phát tâm niệm Phật dù chưa lâu dài lại tội chướng nặng nề, tâm không nghi ngại, chỉ cần nhất tâm niệm Phật, quyết chí nguyện cầu sinh Tây phương, đến giờ phút lâm chung, nhất định được thấy Phật A Di Ðà đến tiếp dẫn vãng sinh không nghi ngờ.
Nếu như người bệnh có tâm niệm luyến ái quyến thuộc và tham trước tài sản. Nên đối trước họ mà nói: “Chúng ta làm người sống trong cõi Ta Bà này thật khổ sở vô cùng tận, ai sinh ra rồi cũng già, rồi cũng bệnh, rồi cũng chết, sự khổ ấy không thể kể hết vì nó vô cùng vô tận. Ðược vãng sinh Cực Lạc thì thoát khổ mà còn an vui vĩnh viễn, lại có thể trở lại độ cho gia quyến cũng được vãng sinh, cùng an hưởng hạnh phúc lâu dài. Vì vậy ông (bà) không nên quyến luyến con cháu và tham đắm tài sản mà làm trở ngại cho việc vãng sinh của mình, lại mất đi việc đời đời kiếp kiếp của gia quyến và những người khác.
Nếu bệnh nhân có tâm nghi ngờ hỏi rằng: “Tôi niệm Phật mà sao chẳng thấy Phật?”. Họ lại hỏi: “Khi tôi lâm chung không biết có được Phật A Di Ðà đến tiếp dẫn hay không?”. Vậy người trợ niệm nên vì họ mà giảng: “Hiện nay được thấy Phật hay chưa được thấy Phật là điều không có quan hệ. Nếu hiện tại chưa được thấy Phật thì lúc lâm chung nhất định thấy Phật. Ðiều quan trọng là sáu chữ Nam mô A Di Ðà Phật niệm niệm hiển lộ trong tâm ông, đến lúc lâm chung thì Phật A Di Ðà tự nhiên ở trong tâm ông hiện ra tiếp dẫn. Xin ông (bà) cần lưu tâm niệm Phật, không nên sinh tâm nghi ngờ, nếu còn một mảy may nghi ngờ thì ông (bà) với Phật cách xa còn làm chướng ngại cho việc vãng sinh. Nếu ông (bà) không sinh tâm nghi ngại mà nhất tâm niệm Phật thì nhất định có sự cảm ứng đạo giao, không nghi ngờ việc vãng sinh. Phải biết rằng người tu Tịnh độ đến giây phút lâm chung thấy Phật hiện tiền, thời gian có sớm có muộn. Sớm thì thấy trước một hoặc hai ngày, hoặc vài tiếng đồng hồ hay trong chốc lát, thời gian hoàn toàn không giống nhau. Nếu trễ thì ngay sau khi tắt thở Phật mới hiện ra (chỉ trong một sát na). Lúc Phật hiện ra cũng là lúc người niệm Phật được vãng sinh.
Nếu bệnh nhân ban đêm và ban ngày hoặc trong khi niệm Phật, hoặc nằm mộng thấy những hình thù ghê gớm, hoặc nghe những âm thanh kỳ quái, tâm sinh kinh sợ làm trở ngại cho chánh niệm. Vậy người trợ niệm nên vì họ mà nói: “Những âm thanh, hình tướng kỳ quái này là oan gia nhiều đời do ông (bà) sát hại mà đến. Nay họ biết được ông (bà) niệm Phật cầu sinh Tây phương, nên hiện ra các cảnh giới xấu ác khiến cho tâm ông (bà) lo sợ, làm trở ngại cho việc vãng sinh. Vì thế ông (bà) đừng sợ họ, không chạy theo các hình ảnh và âm thanh, chuyên tâm nhất ý vào câu Nam mô A Di Ðà Phật. Niệm niệm khẩn thiết chí thành, không cho gián đoạn thì các loại oan nhân không có chỗ nương tựa, tự nhiên tiêu trừ”.
Nếu đến phút lâm chung thấy ông bà cha mẹ, tổ tiên hay người thân quyến hiện ra tiếp dẫn, nên biết rằng họ đều là do quỷ thần từ ba đường ác biến hóa mà thành để lừa gạt chúng ta rơi vào ba đường ác. Vì vậy chúng ta cũng nên chuyên tâm vào câu niệm Phật thì họ tự nhiên biến mất. Nếu thấy thiên nhân và thần nhân hiện ra tiếp dẫn đưa ta về quốc độ của họ phải hết sức cẩn thận đừng để một mảy may tâm niệm dao động theo họ mà chỉ khi nào Phật A Di Ðà hoặc Quán Thế Âm Bồ Tát và Ðại Thế Chí Bồ Tát hiện ra tiếp dẫn mới được. Nên biết rằng Phật A Di Ðà do từ tâm niệm Phật được thanh tịnh hiện ra tiếp dẫn ông (bà), mà cũng do tâm ông (bà) chuyên tâm niệm Phật được thanh tịnh mới được vãng sinh. Hãy chú ý! Chú ý!.
KHAI THỊ CHO NGƯỜI LÂM CHUNG
Ông (bà) nên hiểu rằng không luận là người nào, hai việc bệnh khổ và tử vong là điều không thể tránh được. Nếu ông (bà) có bệnh khổ thì không nên để tâm vào bệnh khổ đó mà hãy chuyên tâm nhất ý niệm Nam mô A Di Ðà, niệm niệm rõ ràng, tưởng đến việc vãng sinh thì bệnh khổ tự nhiên giảm nhẹ bình thường.
Người niệm Phật chúng ta, đến giây phút lâm chung bất luận là việc gì đều nên buông xả để tâm được thanh thản nhẹ nhàng, chỉ nương tựa vào một câu Nam mô A Di Ðà, thanh minh rõ ràng, niệm niệm chấp trì danh hiệu thì khoảng 3 ngày, 5 ngày, cho đến 7 ngày được vãng sinh. Từ đầu chí cuối chỉ một tâm niệm cầu sinh Tây phương nếu có thể y theo lời tôi nói, thì tôi bảo đảm ông (bà) nhất định được vãng sinh, không nên giống như người thế tục không có sự hiểu biết đến lúc lâm chung nếu có bệnh khổ chỉ kêu mẹ kêu cha, chỉ cầu thiên thần, quỷ thần giúp đỡ, đây là sự mê lầm vô cùng lớn lao. Chúng ta cần hiểu rằng người niệm Phật lúc lâm chung, không luận có bệnh hay là không. Cốt yếu là nên cầu lòng từ bi của Phật A Di Ðà sớm đến tiếp dẫn. Còn Thiên, Thần, Quỷ chỉ nằm trong lục đạo luân hồi, là còn sinh tử, làm gì có sức mạnh năng lực mà ông (bà) cầu nguyện, cầu thoát khỏi sinh tử luân hồi?
Chỉ có lòng từ bi và 48 lời nguyện của Phật A Di Ðà cùng năng lực và thần thông quảng đại của Ngài mới có thể cứu độ chúng ta thoát ly sinh tử được. Nếu ông (bà) còn ôm lòng cầu nguyện thiên thần, quỷ thần giúp đỡ thì hãy nên xả bỏ đi, nhất tâm niệm Phật cầu sinh Tây phương. Còn quý ông (bà) thọ mạng chưa hết thì niệm Phật có thể tiêu trừ nghiệp chướng của mình, như vậy bệnh cũng đã hóa vui rồi. Bằng ngược lại thọ mạng ông (bà) đã hết thì ông (bà) nhất định vãng sinh. Giá như niệm Phật chỉ cầu lành bệnh mà không cầu sinh Tây phương thì dù thọ mạng ông (bà) đã hết thì Tây phương khó mà sinh, hoặc thọ mạng chưa hết, bệnh nhất thời khó mà lành, song chẳng những không tốt mà sự khổ vì bệnh lại càng gia tăng. Ông (bà) cần hiểu rằng: Chúng ta sống ở cõi Ta bà ô trược này phải chịu nhiều khổ não hay sao? Nếu được vãng sinh thì thọ hưởng được nhiều vui sướng hay sao? Nếu ông (bà) còn có tâm cầu khẩn trời, thần, quỷ gia tâm giúp đỡ, điều này cho thấy ông (bà) còn sợ chết, nếu còn tâm sợ chết thì tâm ông (bà) cùng với tâm nguyện của Phật A Di Ðà cách xa nhau. Vì thế Tây phương khó mà sinh được, phải chịu khổ hải sinh tử mãi mãi, không có ngày xuất ly.
Nếu ông (bà) còn tâm sợ chết thì tự trách mình. Tại sao ta đã phát tâm niệm Phật, quyết chí cầu sinh Tây phương làm sao còn đeo mang tâm niệm sợ chết tự mình làm chướng ngại cho việc vãng sinh của mình? Vì vậy mình muốn vãng sinh thì nên khẩn thiết nhất tâm niệm Phật cầu Phật từ bi sớm đến tiếp dẫn.
Tóm lại bệnh khổ phát hiện lúc lâm chung, là do oan gia ác nghiệp nhiều đời của chúng ta sở cảm, họ hiện ra ngăn cản nên phát hiện thành nhiều loại khổ não khiến tâm chúng ta sinh phiền não, làm chướng ngại cho việc niệm Phật vãng sinh. Nếu chúng ta hiểu rõ được như vậy thì không bị các loại ma chướng sở chuyển. Ðiều tốt nhất là chúng ta nên chí thành khẩn thiết niệm Phật, niệm niệm không buông lơi, dồn hết tâm lực nương tựa vào danh hiệu Nam mô A Di Ðà Phật thì được vãng sinh Tịnh độ.
QUYẾT NGHI VỀ BỆNH KHỔ LÚC LÂM CHUNG
Người niệm Phật đến giây phút lâm chung nếu bị bệnh khổ nặng nề hiện hành xin chớ nghi ngờ, cũng chớ nên sợ hãi. Ngay như Huyền Trang Tam Tạng Pháp sư xưa kia lúc lâm chung cũng phải chịu bệnh khổ, huống gì là hàng phàm phu chúng ta, lại không có bệnh khổ hay sao?
Chỗ cần yếu là chúng ta phải biết rằng những bệnh khổ này do ác nghiệp từ nhiều đời trước chúng ta tạo ra. Nếu chúng ta không có niệm Phật thì những oan nghiệp này sẽ chiêu cảm chúng ta đời sau phải chịu quả báo vào địa ngục. Khi chúng ta có thiện căn biết niệm Phật thì những ác nghiệp này sẽ nhờ vào lòng từ và sức gia hộ của Phật A Di Ðà mà chuyển thành nhẹ, hiện ra thành bệnh khổ tạm thời, nếu trải qua bệnh khổ rồi thì nhất định được vãng sinh. Ðiều quan trọng chúng ta nên dồn hết tâm lực vào danh hiệu, niệm niệm không gián đoạn thì dù có bệnh đi chăng nữa thì vẫn thấy bình thường.
Như vậy lộ trình đời sau chúng ta sinh địa ngục hoặc Tây phương, đều do tâm chúng ta quyết định. Nếu tùy theo bệnh khổ phiền não thì sinh địa ngục. Nếu tâm niệm Phật thì được vãng sinh. Hãy hết sức cẩn thận!
Ðối với trường hợp khi bệnh khổ, khí lực đã cạn kiệt, bốn chữ A Di Ðà Phật cũng không thể khởi niệm, vậy nên để tâm vào một chữ Phật cũng có thể được. Tâm ông (bà) nên niệm niệm duyên theo chữ Phật đó, tưởng nhớ đến việc vãng sinh. Còn nếu quả thật bệnh khổ bức bách quá trầm trọng một chữ Phật cũng không niệm được thì ông (bà) nên hết sức chí thành khẩn thiết tưởng nhớ trước mặt mình. Phật A Di Ðà từ bi đang đưa tay tiếp dẫn ta. Ðồng thời tâm tâm niệm niệm tưởng nhớ đến việc vãng sinh thì lúc lâm chung tùy theo tâm niệm đó, chúng ta được vãng sinh. Cổ đức có dạy trong Kinh Pháp Cổ: “Lúc lâm chung nếu không thể quán cho đến niệm thì chỉ nên biết đến Phật cũng được vãng sinh”.
Giải thích: Phàm phu bình thường tu tập quán tưởng, có người tu quán tượng niệm Phật, cho đến trì danh niệm Phật mà công phu chưa được đắc tam muội, cho đến nhất tâm bất loạn, song đến lúc lâm chung, vì bị bệnh khổ bức bách, thân tâm không thể an định, không thể đề khởi hay trì danh niệm Phật. Nếu có tưởng nhớ và tâm chí thành tưởng nhớ Phật A Di Ðà đưa tay tiếp dẫn và niệm niệm cầu sinh Tây phương thì lúc lâm chung được sinh về Tịnh độ.
Lời này do từ kim khẩu Ðức Thế Tôn thuyết trong Kinh Phật Cổ, chớ tôi không dám tự nói.
PHƯƠNG PHÁP TRỢ NIỆM
Ðối với vấn đề trợ niệm, trước tiên phải xem bệnh tình của bệnh nhân ra sao? Nếu chưa nặng lắm thì theo nghi thức tụng như sau :
- Tây phương phát nguyện văn của Liên Trì Ðại sư (1 lần)
- Phật thuyết A Di Ðà Kinh (1 quyển)
- Chú vãng sinh (3 lần) (tốt nhất là 21 lần)
- Bài tán Phật A Di Ðà (1 lần)
- Niệm Nam mô Tây phương... A Di Ðà Phật.
Sau đó niệm liên tục: Nam mô A Di Ðà Phật.
Nếu bệnh tình đã nguy kịch, nên niệm ngay Nam mô A Di Ðà Phật hay bốn chữ cũng được. Vấn đề pháp khí nên dùng khánh không nên dùng mõ vì âm thanh của mõ nặng nề. Ban trợ niệm ban ngày nên chia thành hai nhóm, ban đêm chia thành ba nhóm. Mỗi nhóm có ít nhất là hai người, thời gian trợ niệm cứ mỗi nhóm là 1 giờ.
Phương pháp trợ niệm : Ban ngày thì giờ đầu nhóm 1 niệm lớn tiếng, nhóm 2 niệm thầm, giờ thứ hai thì nhóm 2 niệm lớn tiếng, nhóm 1 niệm thầm, cứ vậy mà tiếp tục. Ban đêm, giờ đầu nhóm 1 niệm lớn tiếng, nhóm 2 và 3 niệm thầm hoặc nghỉ ngơi; giờ kế tiếp nhóm 2 niệm lớn tiếng, nhóm 1 và 3 niệm thầm hoặc nghỉ ngơi, giờ tiếp theo nhóm 3 niệm lớn tiếng, nhóm 1 và 2 niệm thầm hoặc nghỉ ngơi. Tiếp tục luân phiên như thế thì không luận 3 ngày, 5 ngày, 7 ngày, nửa tháng cho đến 1 tháng đều có thể trợ niệm lâu dài, vì nhóm này thay thế nhóm kia không hề mệt mỏi, làm cho tiếng niệm Phật ngày đêm không dứt.
Lúc trợ niệm, trước tiên đến trước bệnh nhân mà hướng dẫn rằng: “Tất cả chúng tôi niệm Phật đây là vì ông (bà). Vậy ông (bà) nên cùng chúng tôi đồng niệm Phật. Nếu hơi sức đã cạn kiệt không nên để tâm buông lơi theo trần cảnh mà hãy chú tâm lưu ý nghe chúng tôi niệm Phật, tai phải nghe từng câu từng chữ rõ ràng, trong tâm cũng vậy, nên để hết tâm lực vào âm thanh của danh hiệu Nam mô A Di Ðà Phật”. Thuyết như vậy xong, mới bắt đầu trợ niệm. Nếu trong lúc trợ niệm thấy bệnh nhân bị hôn trầm giống như ngủ, không thể nghe được thì người trực trong ban trợ niệm hãy dùng khánh đến gần bên tai của người bệnh gõ vài tiếng đồng thời lớn tiếng niệm Phật khiến cho người bệnh không còn bị hôn trầm.
Khi người bệnh sắp tắt thở, nếu ban trợ niệm đã có đủ người trợ niệm thì tốt nhất thân quyến nên đến trước bàn Phật A Di Ðà (trong phòng bệnh nhân) mà quỳ niệm Phật, hoặc lạy niệm, cầu xin Phật A Di Ðà phóng đại hào quang, tiếp dẫn vong linh được vãng sinh Tịnh độ. Trong lúc này thì ban trợ niệm nên chia thành hai nhóm, mỗi nhóm niệm Phật khoảng nửa giờ, từ giây phút này trở đi nên lớn tiếng niệm Phật, niệm như vậy cho đến 3 tiếng đồng hồ sau khi người chết đã tắt thở, rồi trở lại luân phiên niệm như bình thường.
Khi bệnh nhân sắp tắt thở, người trực ban trợ niệm cần lưu ý những hiện tượng sau: Nếu mặt người bệnh đổ mồ hôi hoặc nhăn nhó, thân thể co giật, thì đó là do bệnh khổ bức bách, hoặc bệnh nhân giống như ngủ không hay không biết gì cả. Gặp những trường hợp như thế, người trợ niệm cần đến gần họ mà lớn tiếng sách tấn rằng: “Này ông (bà) Tây phương Cực Lạc đang hiện tiền, hãy chú tâm niệm Phật mà vãng sinh”. Nói lớn như vậy hai lần, rồi lại quán sát xem có bất động gì hay không, nếu không thì nên gọi lại một lần cho đến ba lần như thế.
Khi bệnh nhân đã tắt thở mà thi thể vẫn chưa lạnh hẳn, người trực ban trợ niệm phải hết sức chú ý không cho một ai thăm dò trên thi thể. Nếu thân nhân khóc lóc thì yêu cầu họ nên đi chỗ khác hoặc khuyên gia đình cùng phát tâm niệm Phật, trải qua một ngày một đêm, mới có thể thỉnh các bậc trí thức có kinh nghiệm giám định xem thi thể đã lạnh hẳn chưa. Nếu đã lạnh hẳn thì mới ngừng niệm Phật, hồi hướng công đức trợ niệm cho người quá vãng được vãng sinh. Trường hợp thi thể vẫn còn nóng đến một hoặc hai cho đến ba ngày, thì gia đình cần phải phát tâm liên tục niệm Phật trợ niệm. Con cháu trong gia đình phải hiểu được như vậy. Nên phát tâm niệm Phật, không nên khóc lóc không những không có lợi chi mà còn làm mất đi cơ hội vãng sinh của người mất.
THỜI GIAN TẮM RỬA THAY QUẦN ÁO CHO NGƯỜI MẤT
Thi thể người mất đã lạnh hẳn thì sau hai giờ mới nên tắm rửa, thay y phục. Nếu các khớp xương bị cứng nên dùng khăn vải nhúng vào nước nóng đắp vào nơi đó, chỉ vài phút sau là mềm ra. Mắt không nhắm lại được, cũng làm như vậy. Ðối với vấn đề quần áo của người mất nên ăn mặc giống lúc bình thường, hợp với họ, không nên dùng quần áo quá tốt. Nếu có thương người mất chỉ cầu cho họ được vãng sinh hưởng được an vui hạnh phúc miên viễn nơi miền Cực Lạc. Ðó mới là chân thật hiếu thuận là tình thương của sự hiểu biết. Nếu cho người mất ăn mặc đẹp đẽ hơn lúc bình thường chẳng qua là để lừa dối thiên hạ, muốn họ tán thán mà thôi.
PHƯƠNG PHÁP TIẾN VONG (SIÊU ÐỘ) HAY NHẤT
Sau khi vong nhân đã vãng sinh, đối với việc siêu độ, cách hay nhất là nên trai giới mà niệm Phật. Nếu muốn có công đức lớn lao tốt nhất là thỉnh vài vị Tăng Ni (Người tu Tịnh độ) đến trợ niệm Phật. Thời gian lâu mau thì nên tùy theo hoàn cảnh gia đình mà định liệu. Ðối với việc siêu độ người mất tốt nhất gia quyến nên tham gia niệm Phật, vì gia quyến có quan hệ thân thiết hơn nên dễ giao cảm hơn. Việc niệm Phật, không luận là người xuất gia hay tại gia, nếu tâm có sự khẩn thiết chí thành thì công đức vô cùng lớn. Công đức niệm Phật mỗi ngày nên hồi hướng cho người mất được vãng sinh. Nếu người mất đã được vãng sinh thì sẽ tăng cao phẩm vị ở liên đài. Nếu như chưa vãng sinh thì nhờ vào công đức đó mà được vãng sinh. Chẳng những người mất được vãng sinh mà thân quyến lại gieo được duyên lành với Phật pháp, nếu tăng trưởng lòng tin, thực hành tu tập niệm Phật thì cũng được vãng sinh.
Ðối với người thế tục cho rằng việc tụng kinh, sám hối, niệm Phật là tầm thường... Sở dĩ như vậy là họ không hiểu Phật lý. Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật có nói: “Niệm một câu Nam mô A Di Ðà có thể tiêu trừ trọng tội của 800 vạn đại kiếp sinh tử”. Vậy ai dám bảo rằng niệm Phật là tầm thường? Lại cũng trong Kinh này, phẩm Hạ Phẩm Thượng Sinh lại ghi: “Nghe 12 bộ Kinh thì tiêu trừ 1000 kiếp ác nghiệp nặng nề”. Lại chép: “Có thể nghe niệm danh Nam mô A Di Ðà Phật trừ được vô lượng đại kiếp sinh tử trọng tội”. Trên đây là dẫn chứng những lời do chính Ðức Phật Thích Ca dạy để làm căn cứ, chứ không phải do ai nói. Như vậy những lời nói trên cho thấy rằng những người đó chưa biết công đức thù thắng của việc niệm Phật. Ấn Quang Ðại sư có dạy: “Các nhà sư hiện nay, phần lớn là bày vẽ, chẳng được như pháp. Chỉ cốt giữ thể diện mà thôi. Nếu chuyên môn niệm Phật thì người người đều biết niệm, công đức lại rộng lớn, lại thiết thực. Nếu đem công đức niệm Phật hồi hướng khắp cùng chúng sinh, đồng sinh Tịnh độ, thì công đức lợi ích đối với người mất cũng rộng lớn hơn nhiều”.
Sau khi vong nhân đã vãng sinh Tây phương, trong vòng 49 ngày thì thân quyến nên ăn chay niệm Phật, giữ gìn ngũ giới (không nên sát sinh, trộm cắp, dâm dục, nói dối cho đến bày vẽ tiệc rượu vui chơi) thì cả người sống lẫn người mất, đều được lợi ích không thể nghĩ bàn.
VẤN ÐÁP VỀ THÂN TRUNG ẤM
Hỏi: Trong đạo Phật, sau khi người nhà chết, trong vòng 49 ngày, gia quyến nên ăn chay, niệm Phật, tạo các phước lành mà hồi hướng cho người mất là ý nghĩa như thế nào?
Ðáp: Nếu vong nhân quả thật đã được vãng sinh, mà trong vòng 49 ngày gia quyến ăn chay niệm Phật, tạo nhiều phước lành (bố thí, phóng sinh, trai tăng...) hồi hướng cho người mất thì có các lợi ích sau :
1.- Một là người mất tăng cao phẩm vị ở liên trì.
2.- Gia quyến được phước đức vô lượng.
Nếu vong nhân chưa biết có được vãng sinh hay không thì có nghĩa là họ đang ở giai đoạn thân trung ấm. Do đó thời gian này gia quyến vì họ mà ăn chay niệm Phật, tạo phước lành, thì họ nương nhờ công đức này mà phát tâm cầu sinh Tây phương.
Hỏi: Trung ấm thân nghĩa là sao?
Ðáp: Sau khi người mất, thần thức rời khỏi thể xác, nhưng chưa thọ sinh, giống như người ra khỏi phòng này mà chưa vào phòng khác còn ở thời kỳ trung gian nên gọi là trung ấm. Có những trường hợp sau đây thần thức không phải qua giai đoạn thân trung ấm :
1.- Một là người đủ tín hạnh nguyện niệm Phật được vãng sinh.
2.- Người cực thiện được sinh ngay về cõi trời.
3.- Người cực ác liền đọa vào địa ngục vô gián.
Ðối với người bình thường không làm ác không làm thiện, thì phải trải qua thân trung ấm, giai đoạn thân trung ấm, thời gian lâu hay chậm tùy theo nghiệp lực của mỗi người, nhưng chậm nhất có thể là 49 ngày.
Hỏi: Phàm là người sau khi đã chết, tại sao không đi thọ sinh ngay, mà phải trải qua thời gian thân trung ấm?
Ðáp: Nguyên nhân là vì các nghiệp thiện ác nhiều đời cho đến nay chưa quyết định dứt khoát, do tâm thức của người mất lúc nghĩ thiện, lúc nghĩ ác, cứ thay nhau sinh rồi diệt, diệt rồi sinh, nghiệp ác, nghiệp thiện thay đổi không ngừng. Nếu nghiệp thiện nhiều, thì trong tâm họ phát hiện ra cảnh giới trời, người, A tu la, cảnh thiện cũng có ba phẩm: Thượng phẩm thiện (trời), trung phẩm thiện (người), hạ phẩm thiện (A tu la). Tâm thức người mất cũng tùy theo các phẩm thiện trên mà thọ sinh.
Nếu người mất nghiệp và ác nghiệp nhiều thì cũng tùy theo ba phẩm ác sau: thượng phẩm ác (địa ngục), trung phẩm ác (ngạ quỷ), hạ phẩm ác (súc sinh) mà thọ sinh không giống nhau.
Vì vậy, gia quyến đã biết được như vậy rồi, thì trong vòng 49 ngày nên ăn chay niệm Phật, tạo công đức cho người mất, khiến cho họ nương nhờ vào công đức vô lượng này mà tội chướng được tiêu trừ, tăng trưởng thiện phước, được vãng sinh Tây phương, hoặc được siêu thăng cõi trời, hoặc trở lại làm người.
Nếu gia quyến bằng ngược lại không phát tâm ăn chay niệm Phật, tu tạo phước lành, lại chuyên sát sinh, tà dâm, mở tiệc ăn nhậu, đàn ca hát xướng, đồng thời tạo vô lượng các ác nghiệp khác thì dầu cho bổn nguyện của người quá vãng dù là thiện thì cũng mất đi. Nếu vốn là ác nghiệp thì càng chồng chất thêm, khi ác nghiệp càng gia tăng thì nhất định rơi vào các đường ác tức là địa ngục, vĩnh kiếp chịu vô lượng thống khổ vậy.
Hỏi: Nếu gặp hoàn cảnh gia quyến nghèo khổ mà phải ăn chay niệm Phật làm phước trong vòng 49 ngày thì quá khó khăn. Phải giải quyết như thế nào đây?
Ðáp: Niệm Phật là công đức vô cùng lớn. Nếu gặp hành cảnh gia quyến khó khăn, thì không cần thỉnh các vị Tăng Ni, chỉ cần cả nhà ăn chay niệm Phật là đủ rồi. Thời gian niệm Phật mỗi ngày nên quy định sáng tối hai lần, sau khi niệm thì hồi hướng cho vong linh.
Phương pháp niệm Phật độ người mất, tùy theo kinh tế gia đình nên đơn giản, không làm chướng ngại cho cuộc sống mà công đức lại lớn, gia đình lại được phước đối với người mất thì hưởng lợi ích vô cùng. Kẻ mất người còn đều được lợi ích không thể nghĩ bàn.
DẪN CHỨNG KINH ÐỊA TẠNG, PHẨM “LỢI ÍCH TỒN VONG” ÐỂ LÀM LỜI KẾT LUẬN
Trưởng giả Ðại Biện chắp tay cung kính hỏi Ðịa Tạng Bồ Tát rằng: “Thưa Ðại sĩ! Chúng sinh ở cõi Nam Diêm Phù Ðề, sau khi mạng chung, nếu thân nhân quyến thuộc, vì họ mà làm phước, tạo những nhân lành như bố thí, trai tăng, niệm Phật, ăn chay, giữ giới, cúng dường Tam Bảo v.v... Thì người mất có được lợi ích, giải thoát sinh tử hay không?
Bồ Tát Ðịa Tạng đáp rằng: “Này ông trưởng giả, các chúng sinh đời hiện tại hay vị lai, đến lúc lâm chung mà nghe được danh hiệu của một Ðức Phật, Bồ Tát hay Bích Chi Phật, thì chẳng kể người đó có tội hay không có tội, đều được giải thoát (vãng sinh Tịnh độ)”. Trưởng giả lại dạy rằng: “Quỷ vô thường không hẹn mà đến, thần thức ngu mê, chưa rõ tội phước, trong vòng 49 ngày như ngây như dại, hoặc ở tại các Ty mà biện luận nghiệp quả. Sau khi thẩm định thì căn cứ theo nghiệp mà thọ sinh. Trong thời gian chưa quyết định, phải chịu trăm nghìn vạn lần sầu muộn, khổ đau, huống gì đọa vào các nẻo ác. Vong nhân chưa được thọ sinh, trong vòng 49 ngày niệm niệm mong cầu sự cứu giúp của thân quyến. Qua 49 ngày thì tùy nghiệp thọ sinh. Nếu tội nhẹ thì đọa vào ngạ quỷ súc sinh. Nếu tội nặng thì đọa vào địa ngục mà chịu khổ lâu dài vạn kiếp”. (một đại kiếp là bằng 3.440.000 năm ở nhân gian). Lại dạy rằng: “Nếu trong vòng 49 ngày mà thân quyến vì vong nhân tạo các phước đức thì có thể khiến cho họ xa lìa các nẻo ác (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh), mà sinh về cõi trời thọ hưởng sự vui sướng thù thắng, mà quyến thuộc hiện đời cũng được lợi ích vô cùng tận.
PHỤ LỤC
Hỏi: Có người bình thường tín nguyện niệm Phật, nhưng đến lúc lâm chung bị phong thất, cấm khẩu, thần thức hôn mê trong thời gian này, người trợ niệm có tác dụng hay không? Nếu có tác dụng mà người đó vẫn hôn trầm, không hay không biết, thì nói tác dụng là có tác dụng chỗ nào? Nếu không có tác dụng thì công đức niệm Phật bình thường của người mất có bị tổn giảm hay không?
Ðáp: Công đức niệm Phật không thể nghĩ bàn. Nếu người bình thường tín nguyện niệm Phật mà đến lúc lâm chung bị trúng gió cấm khẩu, thần thức hôn mê. Nếu gặp được thiện hữu trợ niệm, thì lợi ích cho người ấy không thể nghĩ bàn. Nếu thần thức trước đó chưa rời thể xác, vẫn còn tỉnh táo, có thể nghe âm thanh niệm Phật, thì có thể phát khởi tâm niệm Phật như bình thường, đến lúc làm chung, nhất định được Phật lực tiếp dẫn Tây phương không nghi ngờ.
Nếu như người chết thần thức hôn mê, sau khi thần thức lìa thể xác, do túc nghiệp chưa định, đang còn ở giai đoạn thân trung ấm. Trong thời gian thân trung ấm lại được quyến thuộc và thiện hữu niệm Phật, nương vào đó mà vong nhân nhớ lại rồi phát tâm niệm Phật như lúc bình thường thì cũng được vãng sinh Tây phương.
Nếu không được như trên, nhưng lại gặp thiện hữu trợ niệm, tuy không được vãng sinh thì thiện căn vãng sinh Tịnh độ lại được tăng trưởng, như trong kinh có chép: “Vào thời Ðức Phật còn tại thế, có một ông lão dòng Phạm Chí tên Tu Bạt Ðà La 120 tuổi, ở ngoài thành Câu Thi Na tu theo ngoại đạo, chứng được năm phép thần thông, vì được định “Phi phi tưởng” thông minh đa trí nhưng chưa xả được lòng kiêu mạn. Bấy giờ nghe Ðức Phật Niết bàn liền đến thăm nghe Phật thuyết pháp, ông nhận rõ đạo lý nhiệm mầu, chứng được A La Hán, ông xin vào hầu Phật, A Nan không cho, Ðức Phật xem biết ông này có căn lành tu hành trong nhiều kiếp lâu xa về trước, thường làm ông tiều đốn củi trên núi. Một ngày bị cọp rượt, ông sợ hãi nhảy thót lên cây, chỉ niệm một tiếng “Nam mô Phật” mà cũng chưa hết câu, từ đó trải qua vô lượng kiếp được Phật độ. Hà huống gì người bệnh niệm Phật thì sao? Cho nên công đức niệm Phật chúng ta không hề bị tổn giảm.
Hỏi: Người đến lúc lâm chung tuy có người trợ niệm nhưng không nghe biết, vậy việc trợ niệm có tác dụng gì?
Ðáp: Ðây là nguyên nhân do túc nghiệp nhĩ căn của người lâm chung đã tạo nên mới có sự việc như vậy. Lúc lâm chung tuy có người trợ niệm, không thể nghe được nhưng vẫn được vãng sinh. Vì sao? Vì tuy nhĩ căn người sắp lâm chung không nghe, nhưng tính căn của sự nghe không mất, chỉ cần tự tâm người đó tỉnh táo, tín nguyện kiên cố, dồn hết tâm lực cầu sinh Tây phương, thì nhất định lâm chung được Phật đến tiếp dẫn, lại được thiện hữu trợ niệm và công đức niệm danh hiệu Phật bất khả tư nghị, thì người ấy nhất định được vãng sinh. Giống như buồm thuận gió thì từ từ tiến lên vậy.
LỜI BẠT
Kinh nói: “Lìa ba đường ác, được thân người là khó, chúng ta ngày nay tuy được thân người, nhưng mấy ai bảo đảm thọ mạng của mình được một trăm tuổi. Sắc thân tứ đại chúng ta một ngày rồi cũng phải tán diệt, lại tùy theo nghiệp thức mà cứ thọ sinh. Như người thiếu nợ, chủ nợ theo đời. Nếu người bình sinh tạo nghiệp thiện mạnh, kiêm tu giới định huệ, sau khi chết thác sinh thiên giới, thọ mạng vạn kiếp, đến khi phước báo hết, lại bị đọa lạc, chung cuộc không có cứu cánh. Ðức Phật nhập diệt đã lâu, bậc thánh không còn, phần lớn nhân loại nghiệp chướng sâu dày, căn cơ bạc nhược, kém cỏi. Tuy cũng có thiền giáo diệu lý, nhưng ít người có thể tu tập. Nếu có tu tập ít ai mà chứng đắc. Nếu muốn liễu sinh thoát tử, siêu phàm nhập thánh, há phải làm sao đây?
Trong Kinh Ðại Tập, Phật có nói: “Ðời mạt pháp, ức ức người tu hành, ít người được đạo, duy chỉ có nương theo pháp môn niệm Phật mới được độ”. Hãy thử xem cách đây 3.000 năm, Ðức Thích Ca Như Lai cho biết như thế, Ngài thật từ bi triệt để. Ở trong tam thừa Ngài khuyên răn chúng sinh nên tu Tịnh độ. Vì Tịnh độ pháp môn phổ nhiếp ba căn: thượng, trung, hạ trí... tùy theo năng lực tu tập công đức, rồi hồi hướng phát nguyện vãng sinh Tây phương, đến lúc lâm chung đều được tiếp dẫn vãng sinh, hóa sinh trong hoa sen, thọ mạng vô lượng, từ đó tiến tu không còn thối chuyển, cho đến ngày thành Phật. Ðiều này cho thấy pháp môn Tịnh độ vô cùng thù thắng diệu kỳ. Nên được gọi phương tiện nhất trong các phương tiện, ngắn tắt nhất trong các đường tu tập. Từ xưa đến nay, người tu tập theo pháp môn này được vãng sinh, dùng toán số khó mà biết được.
Hoặc có người niệm Phật mà chưa được vãng sinh là do nhân duyên chưa đầy đủ, cho đến các mê lầm, làm mất chánh niệm dẫn đến cùng Phật cách xa, nên không được vãng sinh, không được Phật tiếp dẫn. Hoặc có người bình thường tuy có phát tâm niệm Phật, chỉ mong cầu phước báo, không phát nguyện vãng sinh. Hoặc lại có người bình thường tín nguyện không tha thiết, lại niệm Phật không thường xuyên. Hoặc lại có người lúc lâm chung, thiếu sự trợ niệm của người, hoặc có người được trợ niệm, lại bị những người nhàn rỗi nói chuyện tạp, làm cho tâm sinh phiền não bất an. Hoặc lại có người lúc lâm chung, quyến thuộc bạn bè khóc lóc kêu réo nên bị tình luyến ái dắt dẫn, khó xả bỏ được. Hoặc có người lâm chung, gia quyến thỉnh mời bác sĩ đến chích thuốc hồi sinh phải chịu khổ sở. Hoặc có người tuy đã tắt thở nhưng chưa lạnh hẳn, thần thức chưa rời khỏi thể xác, thì bị người dùng tay dò xét nóng ở nơi đâu. Lại có người sau khi lâm chung liền bị thay quần áo tắm rửa hết sức miễn cưỡng.
Trên đây là các nguyên nhân mê lầm đều có thể khiến cho người lâm chung mất chánh niệm, không được vãng sinh. Vì vậy phàm là người niệm Phật phải nên biết những điều đó. Lấy đó làm kinh nghiệm cho bản thân. Chúng tôi thiết nghĩ rằng suốt cả cuộc đời chúng ta tu tập công trình ấy thật lớn lao vô cùng. Song đến giây phút lâm chung chỉ vì gia quyến không có sự hiểu biết về Phật pháp và phương pháp trợ niệm ra sao vì thế mà mất đi nhân duyên trăm nghìn kiếp vãng sinh Tịnh độ thật là tiếc thay. Vậy mong quý vị nhất là người tu Tịnh độ hãy theo sự hướng dẫn của sách này mà khởi thực hành chắc chắn sẽ thu hoạch được nhiều lợi ích trong giờ phút lâm chung, lại thành tựu việc vãng sinh về thế giới Cực Lạc.
Mấy lời tâm huyết
Thuyết pháp giảng kinh, viết sách giáo lý nhà Phật hoặc in kinh sách đem phát cho mọi người xem, để họ sớm giác ngộ. Ðược như thế công đức vô lượng, đó gọi là pháp thí.
Nếu không đủ điều kiện làm những việc ấy, thì thỉnh một số kinh sách chịu khó đem đến từng nhà cho mượn đọc, rồi sau đó lại lần lượt cho nhà khác mượn nữa, hoặc đọc cho kẻ khác nghe, nhất là cho người không biết chữ nghe, cũng được công đức vô biên, đó cũng gọi là Pháp thí.
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thí là công đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng”.
Tưởng về lợi cũng như về danh, chúng ta đừng lo nghĩ vội, mà điều tối cần là làm sao cho rạng rỡ chánh đạo trước cái đã. Ðó là mục đích chính và thiêng liêng cao cả của chúng ta. Nền móng đạo pháp cần nhờ sự chung lưng góp sức của chúng ta. Vậy mỗi người nên xây đắp vào đó một ít vôi, một ít nước, hoặc một tảng đá hay một viên gạch v.v... ngõ hầu cái nền móng ấy được thêm bền vững và kiên cố đời đời.
Chúng ta không nên quan niệm ở công đức vô lượng vô biên, mà điều cần thiết là nên nghĩ nhiều đến những người lầm đường lạc lối, sống trong vòng đầy tội lỗi không có lối thoát, hãy mau cứu vớt họ, cảnh tỉnh họ để cùng quay về chân lý. Nếu được như thế chính ta đã làm lợi ích cho Phật Pháp vậy.
Với hoài bão cuộc đời, chúng ta hãy “Tất Cả Vì Phật Pháp”. Hy vọng mấy lời tâm huyết này được nhiều vị hảo tâm in kinh sách cho muôn dân xem.
Ðược như vậy công đức không gì sánh bằng!
Tha thiết mong mỏi như thế!
Tặng cho thân nhân một số tiền nhỏ, lòng mình không vui.. Nhưng mình không đủ sức tặng nhiều hơn. Chỉ có một cách là tặng các loại sách tu hành để xây dựng cho đời sống thanh cao, thì dù một quyển sách giá chỉ có vài ngàn, nhưng vẫn còn quý hơn bạc vạn.
Quý vị nào muốn phát tâm ấn tống kinh sách xin liên hệ:
CHÙA HOẰNG PHÁP, Xã Tân Hiệp, huyện Hóc Môn, TP. Hồ Chí Minh. ÐT: 7130002 email: hoangphap@hcm.vnn.vn
Lời người dịch
Trong suốt 49 năm hoằng pháp lợi sinh của Ðức Phật, từ bước đầu chuyển bánh xe pháp “Tứ diệu đế” tại vườn Lộc Uyển độ năm anh em Kiều Trần Như, đến phút cuối Niết bàn độ Tu Bạt Ðà La. Với hơn 300 hội thuyết pháp của bậc Ðạo sư đã “khai quyền hiển thực” hướng dẫn chúng sinh chuyển mê thành ngộ đạt tới đích giải thoát. Ðứng trên phương diện giáo dục Ngài dạy chúng sinh theo phương pháp “Tứ tất đàn” để tùy thuận căn cơ lợi độn, đưa con người trở về cội nguồn chân tâm thường trụ thanh tịnh. Giáo pháp ngài thuyết giảng được các bậc Ðại Tổ sư chia thành mười hai bộ Kinh, một trong mười hai bộ Kinh này có nền giáo lý Tịnh độ. Một trong ba bộ Kinh “Vô vấn tự thuyết” căn bản của Tịnh độ, đều từ kim khẩu của Ðức Phật ca ngợi tán thán vẻ đẹp kỳ diệu, công đức thù thắng của cõi Tây phương. Ðồng thời Ngài khuyên tất cả chúng sinh nên phát nguyện niệm Phật cầu sinh Tây phương. Vì sao? Vì pháp môn Tịnh độ là phương tiện hàng đầu trong các phương tiện, liễu nghĩa nhất trong các pháp liễu nghĩa, viên đốn trong các pháp tối viên đốn. Không luận là hạng người nào, từ người quê mùa chân lấm tay bùn đến hàng người trí thức, từ tuổi trẻ thanh niên cho đến ông già bà cả, từ những người bệnh cho đến những người khỏe mạnh. Nếu ai có lòng tin sâu, nguyện thiết, hành chuyên sự lý thông suốt, phát nguyện vãng sinh thì nhất định đạt được mục đích.
Nói đến những khổ đau trong thế gian này thì không khổ gì bằng khổ tử vong, đối với việc tử vong thì mỗi chúng ta ai ai cũng biết và không thể nào trốn tránh được, vì đó là định luật tự nhiên. Song, điều quan trọng nhất vào giờ phút lâm chung là tâm niệm của mỗi người. Vì tâm niệm cuối cùng đó sẽ tùy theo nghiệp tạo tác lúc hiện tiền mà đầu thai vào các cõi. Ðối với người tu Tịnh độ ba món tư lương quan trọng nhất là Tín, Hạnh, Nguyện. Nhưng điều tối quan trọng hơn là vào giờ phút lâm chung làm sao phải giữ được tâm niệm cầu sinh Tây phương, không nên quyến luyến con cháu cho đến của cải tài sản để rồi tùy theo tâm niệm luyến ái đó đánh mất nhân duyên trăm nghìn kiếp vãng sinh Tịnh độ của chính mình.
Nhận thấy tập sách “Những vấn đề cần biết khi lâm chung” của Pháp sư Thế Liễu soạn, có thể đáp ứng phần nào vấn đề khúc mắc, sai lầm trong giờ phút lâm chung của người Phật tử tại gia. Chúng tôi là hàng sơ cơ bước vào đạo, đối với sở học còn non kém, nhưng được sống trong môi trường tu học pháp môn Tịnh độ và tổ chức các Khóa tu Phật thất. Nên chúng tôi mạo muội dịch tập sách này từ chữ Hoa sang chữ Việt, để mong đóng góp được phần nào trong việc hoằng dương Tịnh độ.
Trong quá trình soạn dịch chắc chắn sẽ có nhiều điều sai sót, kính mong chư tôn đức từ bi chỉ dạy cho, để lần tái bản được hoàn thiện hơn. Ðồng thời cầu mong cho quý vị đồng tu không nên chấp trước vào văn tự hẹp hòi mà điều thiết yếu y theo đó thực hành thì nhất định tránh được những sai lầm vào giờ phút lâm chung mà thành tựu việc liễu sinh thoát tử, xa lìa khổ não, vãng sinh Tịnh độ.
Nam mô A Di Ðà Phật
Tâm An
LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC NGƯỜI NIỆM PHẬT LÂM CHUNG CÓ ÐƯỢC VÃNG SINH HAY KHÔNG?
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni ở thành Xá Vệ vườn trưởng giả Cấp Cô Ðộc đã thuyết Kinh A Di Ðà, Ngài ca ngợi tán thán sự trang nghiêm của thế giới Cực Lạc, từ đó khuyên đại chúng nên phát nguyện vãng sinh Tây phương trong Kinh nói: “Như ta ca ngợi tán thán cái lợi công đức bất khả tư nghì của Phật A Di Ðà, ở phương Ðông có A Súc Bệ Phật v.v... phương Nam có Nhật Nguyệt Ðăng Phật... phương Tây có Vô Lượng Thọ Phật... hạ phương có Sư Tử Phật... các Ngài đều hiện ra tướng lưỡi rộng dài, nói lời chân thật, khuyên bảo chúng sinh nên một dạ tin kinh thì công đức lớn lao vô cùng, vì tất cả các chư Phật đều luôn hộ trì tưởng nhớ”. Ðiều này cho thấy rằng vãng sinh Tịnh độ là một nhân duyên lớn, mười phương chư Phật, đồng nghe kinh và tán thán, phàm có sinh niềm tin, có phát nguyện niệm Phật cầu sinh về cõi Cực Lạc thì nhất định đều có thể vãng sinh.
Hỏi: Nếu nói rằng người niệm Phật đều được vãng sinh Tây phương, thì tại sao tôi thấy có nhiều người tại gia cũng như xuất gia bình thường niệm Phật nguyện vãng sinh Tịnh độ, nhưng đến phút lâm chung thì chết một cách mơ mơ hồ hồ chẳng thấy mấy ai chân thật vãng sinh là vì sao?
Ðáp: Ðó là do người niệm Phật vào giờ phút lâm chung do nhân duyên không đầy đủ. Nếu có đầy đủ nhân duyên thì nhất định sẽ được vãng sinh.
Hỏi: Thế nào là nhân duyên?
Ðáp: Người niệm Phật bình thường tin sâu nguyện thiết, niệm Phật cầu sinh Tây phương, cho đến giờ phút lâm chung vẫn giữ được tâm niệm đó, thì đó là “nhân” tự lực, tuy nhiên đối với người lúc bình thường chưa biết tín nguyện niệm Phật cầu sinh Cực Lạc, nhưng đến giờ phút sắp lâm chung may mắn gặp được thiện hữu tri thức khai thị mới sinh tín nguyện, cầu sinh Tây phương thì đây cũng là “nhân” tự lực. Giáo chủ Cực Lạc, là Ðức Phật A Di Ðà cùng với vạn đức hồng danh, có thể khiến cho chúng sinh vãng sinh Cực Lạc đây là “Duyên” tha lực, và cho đến giờ phút lâm chung gặp được thiện hữu trợ niệm và đây cũng chính là “duyên” tha lực.
Hỏi: Người niệm Phật đến lúc lâm chung đầy đủ nhân duyên thì có thể vãng sinh Cực Lạc, xin giải thích rõ nguyên tắc trên.
Ðáp: Người niệm Phật đến giờ phút lâm chung mà tin sâu nguyện thiết niệm Phật là “duyên” tha lực, còn cái tâm năng niệm Phật là “nhân” tự lực. Vào ngay lúc đó dùng cái tâm năng niệm Phật mà niệm Ðức Phật A Di Ðà thì Ðức Phật A Di Ðà nhân cái tâm năng niệm mà hiển hiện. Tâm năng niệm Phật lại nhờ sự hiển hiện cầu Phật A Di Ðà mà được thanh tịnh và ngay chính lúc đó, khiến cho sự tự lực có sự cảm ứng đạo giao, chính sự nhân duyên hòa hợp này cho nên thành tựu việc vãng sinh. Ðây chính là nguyên tắc “Nhân duyên” vậy.
Hỏi: Người niệm Phật đến lúc lâm chung, mà nhân duyên không đầy đủ thì không thể vãng sinh có đúng vậy không?
Ðáp: Người niệm Phật bình thường tín nguyện có công phu niệm Phật nhưng chưa thuần thục. Ðến giờ phút lâm chung tuy có tâm tín nguyện cầu sinh Tây phương (có “nhân”) song bị bệnh khổ và các phiền não khác bức bách nên tâm niệm Phật không phát khởi, lại không gặp được thiện hữu khai thị và trợ niệm (không “duyên”) cộng với gia quyến không biết đạo lý, cứ khóc lóc, thở than khiến trong tâm người niệm Phật khởi lên nhiều phiền não, chính sự khóc lóc đó là “duyên” làm chướng ngại cho tâm niệm người vãng sinh. Trường hợp này gọi là có nhân nhưng không gặp thiện duyên nên không thể vãng sinh được.
Lại có người bình thường tín nguyện niệm Phật tha thiết, đến giờ phút lâm chung được sự trợ duyên rất tốt, lại gặp được thiện hữu tri thức khai thị và trợ niệm (có “duyên”), cộng gia quyến không khóc lóc làm xao động. Nhưng vì tự tâm của người niệm Phật lại sinh điên đảo, tham luyến thế gian, cho đến quyến luyến con cháu, của cải, vì thế không phát khởi tâm nguyện cầu sinh Tây phương Cực Lạc (không “nhân”). Bởi vậy theo tâm niệm ái dục mà đi đầu thai vào các đường thiện ác. Ðây gọi là có “duyên” mà không “nhân” nên không thể vãng sinh được.
Lại có người bình thường niệm Phật chỉ cầu cho gia đình bình an hạnh phúc thọ mệnh lâu dài v.v... Nhưng do vào giờ phút lâm chung chỉ sợ chết, như có bệnh mà chưa đến giai đoạn trầm trọng, tuy cũng có niệm Phật nhưng chỉ muốn cầu bệnh mau lành, chứ không cầu sinh Tây phương Cực Lạc (không “nhân”). Khi đến giai đoạn bệnh trầm trọng, bấy giờ các khổ não đau đớn hiện hành không thể niệm Phật, chỉ than trời trách đất, kêu mẹ gọi cha. Lại vì gia quyến không tin Phật pháp, hoặc có tin nhưng không hiểu rõ lý nghĩa Kinh Phật, lại không gặp được thiện hữu khai thị và trợ niệm (không “duyên”) đây là cả nhân lẫn duyên không đầy đủ nên không thể vãng sinh vậy.
Hỏi: Người tu niệm Phật vào giờ phút lâm chung thế nào gọi là đầy đủ nhân duyên có thể vãng sinh Cực Lạc?
Ðáp: Như có hạng người có căn cơ rất lớn, lúc bình thường hết sức tin sâu nguyện thiết niệm Phật, tín nguyện lại tha thiết, công phu niệm Phật lại thuần thục, đến giờ phút lâm chung không cần người trợ niệm, mà tự họ có thể tín nguyện niệm Phật như bình thường, không có một mảy may tưởng khổ vui... làm xao động, mà niệm niệm luôn an trụ vào hồng danh, A DI ÐÀ PHẬT vì vậy trong Kinh A Di Ðà Phật nói: “Nhất tâm bất loạn, tức được vãng sinh” là vậy (“nhân” của tâm niệm tự lực cảm ứng với “duyên” cảnh giới của Phật) đây là ý nghĩa đầy đủ nhân duyên vậy.
Lại có người bình thường tu niệm Phật tin sâu nguyện thiết, nhưng công phu chưa thành thục, vào giờ phút lâm chung, lòng tín nguyện cầu sinh Tây phương lại càng tha thiết, không bị các bệnh khổ hoặc nghiệp chướng phiền não làm dao động. Lại gặp được thiện hữu tri thức khai thị, được sự trợ niệm. Nhờ thế nên tâm của người bệnh niệm niệm an trụ vào nơi hồng danh A Di Ðà Phật mà được vãng sinh. (“nhân” của tự lực cộng “duyên” tha lực)
Lại có hạng người, bình thường không biết tín nguyện niệm Phật cầu sinh Tây phương. Nhưng đến giờ phút lâm chung lại gặp được thiện hữu tri thức khai thị, nói đến sự vui sướng cùng sự trang nghiêm thanh tịnh của thế giới Tây phương, và 48 lời nguyện tiếp dẫn chúng sinh niệm Phật của Phật A Di Ðà khiến cho tâm người bệnh trở nên hoan hỷ, tâm sinh chánh tín niệm Phật, phát nguyện vãng sinh. Cho đến quyến thuộc không khóc lóc hỏi han lại được sự trợ niệm mà người bệnh được vãng sinh.
Hỏi: Người bình thường chưa biết tín nguyện niệm Phật, đến giờ phút lâm chung, gặp được thiện hữu khai thị sinh tâm hoan hỷ, tín nguyện, phát nguyện niệm Phật cầu sinh Tây phương, cho đến gia quyến không khóc lóc, lại được sự trợ niệm liền được vãng sinh. Sự việc trên nói sao mà dễ dàng như vậy?
Ðáp: Xin giải thích rõ sự việc người bình thường chưa tín nguyện cầu sinh Tây phương là vì không biết đến giờ phút lâm chung được thiện hữu tri thức khai thị mà sinh tâm hoan hỷ quyết định tín nguyện niệm Phật cầu sinh Tây phương. Người này đời trước đã có căn duyên là “nhân” thù thắng cộng thêm nhân thù thắng được sự thiên hữu khai thị, và trợ niệm. Lại có nguyên lực từ bi của Phật A Di Ðà. Nhân duyên hòa hợp lại, đến giờ phút lâm chung nhất định được vãng sinh, điều này còn có thể nghi ngờ được hay sao?
Hỏi: Chúng tôi là hàng Phật tử tại gia. Nếu đến giờ phút lâm chung của thân nhân, đối với Phật pháp, chưa từng biết, tuy có khai thị nhưng chẳng hiểu phương pháp trợ niệm. Xin hỏi trong Kinh sách có dạy phương pháp trợ niệm nào mà dễ hiểu, dễ học tập hay không?
Ðáp: Nếu chúng ta có tâm thành thật, muốn tu hạnh từ bi, hiếu thuận, thương yêu những người quyến thuộc muốn họ thoát khỏi khổ đau của luân hồi sinh tử, được vãng sinh về Tịnh độ xin chỉ cần y theo những điều hướng dẫn dưới đây thì nhất định thành tựu.
NHỮNG VIỆC MÀ GIA QUYẾN CỦA NGƯỜI SẮP LÂM CHUNG CẦN CHÚ Ý
1.- Cha mẹ là người có công sinh thành dưỡng dục vì thế chúng ta phải luôn hiếu thuận, còn đối với anh, chị, em... là người cùng huyết thống nên phải thương yêu. Như vậy thế nào được gọi là hiếu thuận, thương yêu, thế nào được xem là bất hiếu, không hiếu thuận? Người được gọi là hiếu thuận là thương yêu, trước tiên người đó đối với mọi sự tình hết sức nhẫn nhịn hòa thuận, trên kính dưới nhường, biết chăm sóc quan tâm, yêu thương giúp đỡ đối với gia quyến... bằng ngược lại thì được xem là đại ngỗ nghịch. Cách tốt nhất là người này biết hướng dẫn gia quyến quy y Tam Bảo, tu tập thiện pháp thì lợi lạc vô cùng.
2.- Theo Phật pháp đến giờ phút sắp lâm chung là giây phút rất quan trọng của một kiếp người. Chúng ta là gia quyến, đối với giây phút ngắn ngủi ấy nên đối xử hết sức hiếu thuận và đầy lòng thương yêu đối với họ, dù họ có đòi hỏi hay yêu cầu bất kỳ việc gì nhất nhất tùy thuận theo ý tứ của họ, không nên để tâm họ sinh một mảy may phiền não nào.
3.- Khi có người thân sắp lâm chung, nếu có hội trợ niệm nên mời họ đến. Lúc họ đến những người trong gia quyến phải tuyệt đối tuân theo sự hướng dẫn của họ, không nên có mảy may nào làm theo ý riêng của mình. Trường hợp những nơi không có ban trợ niệm thì gia quyến có thể tự trợ niệm cũng được, chỗ cốt yếu là đúng theo Phật pháp. Ðiều quan trọng cần tuân theo là làm ma chay không nên sát sinh mà làm tổn giảm phước đức vãng sinh của người niệm Phật. Nếu muốn cho người vừa mất được sinh về cõi lành, điều tốt nhất là gia quyến cùng nhau ăn chay trong thời gian này. Khi bệnh họ trở nên nặng thì chỉ lo trợ niệm, tuyệt đối không nên cho uống nhân sâm hay thuốc bổ hồi sinh vì làm như vậy rất chướng ngại cho sự vãng sinh.
4.- Phải biết rằng khi một người lâm chung họ sẽ theo một trong bảy con đường sau đây: Ba đường dữ: Ðịa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Ba đường lành: Trời, Người, A tu la và một đường Thánh đạo là Tây phương Cực Lạc. Vì vậy gia quyến nên nhận thức rằng chúng ta trợ niệm là để cho người quá vãng được vãng sinh Cực Lạc thọ hưởng sự vui sướng hạnh phúc. Nếu chúng ta khóc lóc, kêu réo, thở than thì làm cho họ rơi vào sáu nẻo luân hồi chịu mãi thống khổ.
5.- Nên biết rằng trong kinh Phật dạy hết sức rõ ràng. Nếu bị đọa lại vào ba đường dữ thì thọ nhận sự khổ đau không cùng tận. Nhất là cõi địa ngục, một ngày một đêm ở đó người ta phải chịu chết đi sống lại muôn vạn lần, còn cái khổ của ngạ quỷ kéo dài cả trăm vạn kiếp, nước uống không thể được nói gì đến việc ăn. Nếu lỡ rơi vào ba đường khổ này, thì chịu khổ ít nhất năm ngàn đại kiếp, mỗi một đại kiếp như vậy có 34.384 vạn năm. Thật là một thời gian dài vô cùng tận. Ngược lại thân nhân được về Tây phương thì mỗi ngày đều được nghe Phật A Di Ðà thuyết pháp, được gần Ðại Thế Chí Bồ Tát, Quan Âm Bồ Tát cùng các bậc Thánh hiền, lại được thấy các sắc tướng trang nghiêm, được nghe âm thanh thuyết pháp tuyệt diệu, ngoài ra còn hưởng được nhiều điều hạnh phúc sung sướng khác.
6.- Nếu người bình thường đã có tâm nguyện niệm Phật cầu sinh Tây phương điều này rất tốt. Bằng ngược lại thì quyến thuộc nên vì người bệnh mà thuyết giảng rõ ràng: “Nếu đọa lạc vào ba đường ác thì khổ não vô vàn, còn được sinh về Tây phương thì rất an lạc, vĩnh viễn không đọa lạc vào ba đường dữ, phước đức người sinh ở đó không thể nghĩ bàn. Nên khai thị với họ rằng: “Nếu ông (bà) phát tâm niệm danh hiệu A Di Ðà Phật, tin sâu nguyện thiết cầu sinh Tây phương. Ðến giờ phút lâm chung, Ðức Phật tay cầm đài sen hiện ra trước mắt tiếp dẫn vãng sinh về Tây phương, nơi ấy được hưởng an vui không hề còn sinh tử luân hồi. Nếu ông (bà) quyết định niệm Phật thì chắc chắn được vãng sinh. Mỗi ngày những người thân nhân nên vì họ mà nhắc lại ba lần như vậy, không nên nói nhanh hay gấp gáp mà từ từ hòa diệu chầm chậm khuyên họ. Ðiều quan trọng chúng ta phải hiểu được tâm người bệnh, điều hết sức e dè và ngần ngại là đừng để họ khởi tâm phiền não. Ðối với trường hợp người bệnh đã có tin sâu nguyện thiết niệm Phật, hãy để họ nằm yên, không nên hỏi han, hay than khóc mà chỉ cần khuyên họ nhất tâm niệm Phật, cầu sinh về Tây phương là được.
7.- Nếu người bệnh có việc quan trọng cần nói cho quyến thuộc nhưng do bệnh tình không thể. Do đó gia quyến nên hiểu rõ tâm thức của họ đến trước họ hỏi họ cần căn dặn điều gì hay không, trường hợp người bệnh tâm thần quá mê muội thì không nên hỏi han mà làm rối loạn tâm ý của họ, làm họ mất đi chánh niệm (chánh niệm là chỉ cho sự niệm Phật). Còn đối với trường hợp tâm thần người bệnh còn minh mẫn nên đến trước họ mà nói rằng: “Hãy yên lòng, tất cả các việc trong gia đình đã có người đảm đang. Ông (bà) (người lâm chung) hãy nhất tâm niệm Phật cầu sinh Tây phương”. Mỗi ngày nên vì họ nói như vậy, nếu tâm thức của họ ngày càng trở nên mê mờ chỉ cần chuyên môn trợ niệm cho họ.
8.- Nếu có thân hữu bà con đến thăm viếng người bệnh, trước tiên nên nói cho họ biết người sắp lâm chung tâm niệm vô cùng quan trọng vì vậy xin họ đừng nên nói hay làm gì mà có thể chướng duyên cho vấn đề vãng sinh của người bệnh.
9.- Nếu người bệnh do nghiệp chướng hiện tiền, không hoan hỷ và chán ghét người niệm Phật, nghe người trong nhà niệm Phật trong lòng khó chịu, hoặc thấy quỷ thần hiện đến dẫn dắt. Ðây là do người đó nghiệp chướng phát hiện, làm chướng ngại cho việc vãng sinh. Vì thế quyến thuộc nên vì họ đến trước Phật tiền niệm Phật sám hối thay thế cho họ, khiến họ nghiệp chướng được tiêu trừ, vãng sinh Tịnh độ. Ví như năm ngoái có một cư sĩ mà mẹ cư sĩ này lâm bệnh sắp chết. Người này thỉnh đoàn trợ niệm đến nhà trợ niệm. Bà ta nghe niệm Phật, tâm lý khó chịu khởi lên cho rằng những người trợ niệm tâm không chuyên chú. Lúc bấy giờ có một vị cư sĩ quy y Sư phụ (tác giả) biết được bà này do nghiệp chướng khởi đến nên đem Kinh Ðịa Tạng đọc tụng sám hối thay thế hết sức thành khẩn, lại vì bà mà niệm Phật, khiến cho tâm bà ta vô cùng hoan hỷ niệm Phật mà vãng sinh Tịnh độ. Phần trên có nói là đọc tụng Kinh Ðịa Tạng có thể tiêu trừ nghiệp chướng oan gia, giả như không thể đọc tụng được thì chỉ niệm danh hiệu của ngài cũng có thể tiêu trừ nghiệp chướng. Lại có một vị cư sĩ cha lâm bệnh lúc gần chết, thấy có một người đàn bà và một con chó đến đòi mạng. Vị cư sĩ này liền thay cha mà niệm Phật và sám hối, về sau chẳng thấy hình ảnh trên đến nữa, mà ngược lại cha cư sĩ lại thấy hai vị tăng đến trước ông mà nói rằng “Ðời trước ông làm trở ngại việc vãng sinh của chúng tôi, nên nay chúng tôi cũng làm ngăn trở việc vãng sinh của ông”. Một lần nữa cư sĩ này lại thay cha tiếp tục sám hối niệm Phật, đồng thời cầu nguyện cho hai vị tăng cũng như cha mình được vãng sinh. Nếu trường hợp cha ông được vãng sinh thì sẽ trở lại trợ giúp cho hai vị tăng được vãng sinh để sám hối lỗi lầm xưa kia ông đã tạo, khoảng một thời gian sau, thì cha vị cư sĩ này không còn thấy hai vị tăng đến nữa. Sau cùng ông lại thấy một vị lão tăng đến và nói: “Ông đã được tiêu trừ tội chướng, trong vòng ba thất sẽ được vãng sinh vào cấp thứ năm của chín phẩm”. Lại nói tiếp: “Sở dĩ vì ba thất là do con ông biết đạo, trong ba thất đầu tức là 21 ngày, gia đình của ông trợ niệm rất nhiều cho ông, khi hết 21 ngày thì ông được vãng sinh vào địa vị thứ năm của chín phẩm hoa sen tức là Trung phẩm Trung sinh”. Hãy lấy đó mà suy nghĩ kỹ, quyến thuộc chỉ thay thế người bệnh sám hối và niệm Phật, hoặc đọc tụng Kinh Ðịa Tạng, hoặc niệm danh hiệu A Di Ðà Phật mà có công năng như vậy.
10.- Nếu người bệnh sắp đến giờ phút tắt thở và đã có nhiều người trợ niệm, quyến thuộc nên đến trước bàn Phật, hoặc quỳ, hoặc đứng niệm một cách chí thành khẩn thiết cầu Phật từ bi tiếp độ hương hồn của người quá vãng được về Tịnh độ. Nếu người trợ niệm quá ít hoặc chẳng có thì thân nhân nên đến bên cạnh người bệnh mà niệm Phật, tuyệt đối không nên đứng đối diện trước mặt người bệnh. Vì sao? Vì chính thời điểm này, nếu người thân thấy được bệnh nhân khó mà tránh được khóc lóc, thương yêu, làm phương hại cho chánh niệm của người bệnh. Tốt nhất là thân nhân nên đứng hai bên, hoặc ngồi phía sau bệnh nhân, cố gắng niệm Phật, tuyệt đối là không được khóc lóc, kêu réo. Nếu bệnh nhân nghe được liền khởi sự luyến ái, đau thương buồn rầu làm mất đi chánh niệm niệm Phật. Nếu mất chánh niệm rồi thì chắc chắn không được vãng sinh Tây phương. Vậy vào giây phút này, chúng ta là những người thân nhân nên hết sức cẩn thận, hết sức chú ý, tuyệt đối không được khóc than mà nên lớn tiếng niệm Phật, từng câu, từng chữ thật rõ ràng. Nhờ vào sự trợ niệm của thân nhân cộng với bi nguyện của Phật A Di Ðà sẽ gia hộ cho người bệnh thân tâm an lạc chánh niệm rõ ràng, nhanh chóng vãng sinh Tây phương.
11.- Sau khi người chết đã tắt hơi thở, nhưng thi thể chưa hoàn toàn lạnh hẳn. Thì quyến thuộc nên tiếp tục lớn tiếng niệm Phật trợ niệm cho vong nhân, không nên khóc lóc. Ðồng thời không để ruồi muỗi đậu lên thi thể, vì lúc này thần thức chưa rời khỏi thể xác, giả sử có một vật gì chạm vào thân thể thì họ cảm thấy đau đớn vô cùng. Có một số người thường hay khám xét thân thể người chết để xem thử người bệnh sẽ đi về đâu, điều này không có lợi ích gì mà có hại rất lớn đối với người chết. Vào giây phút quan trọng này, đối với gia quyến nên thỉnh ban hộ niệm đến trợ giúp, nếu họ chưa đến kịp nên y theo phương pháp trợ niệm mà thực hành, trường hợp họ đến rồi nên tuân theo mọi sự chỉ giáo của họ, không nên tùy tiện làm theo ý kiến riêng tư. Tuyệt đối đừng nên tuân theo những tập tục mê tín vô căn cứ của thế gian. Họ thường nói: “Phàm là người chết thi thể còn nóng, khớp xương còn mềm mại nên thay y phục cho họ.” Lại có quan niệm cho rằng, nếu người chết rồi lo liệm ngay nếu không sẽ mắc nợ miên sàng. Lại một quan niệm là người nhà mất là phải khóc lớn để đẩy lùi hung khí, trên đây là những quan niệm mê tín, tương truyền cho đến ngày nay, nó có hại cho người thân chúng ta. Chính nó đã khiến cho nhiều người quyến thuộc chúng ta khi mất phải chịu oan uổng nhiều khổ não, để rồi phải rơi vào ba đường ác đạo: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.
Xưa có một vị vua tên là A Kỳ Ðạt bình sinh tin phụng Phật pháp bố thí xây dựng chùa tháp công đức to lớn vô cùng. Thế nhưng vào giờ phút lâm chung, vị quan phục vụ cho ông nhân vì nhiều ngày chưa ngủ, tinh thần yếu đuối trong khi hầu hạ cho ông, vô tình lấy tay quạt mạnh vào người ông, làm cho vị vua này cảm thấy đau đớn, tâm sinh sân hận, sau khi thân thể rời khỏi thể xác vì tâm sân hận này mà thác sinh thành một con mãng xà, có một vị cao tăng biết được những công đức của vị vua này tạo tác, và có lòng tin sâu Tam Bảo, nên vì mãng xà thuyết pháp. Nhân vì nghe pháp được phước đức, ba ngày sau mãng xà qua đời, thần thức liền được sinh cõi trời. Lại một trường hợp khác. Xưa có một đôi vợ chồng, sống rất thương yêu hòa thuận, bình thường cũng tin theo Phật pháp, ăn chay giữ giới. Một ngày nọ người chồng bỗng nhiên qua đời. Người vợ vô cùng đau đớn khóc than thảm thiết. Tuy thân thể người chồng đã chết nhưng thần thức vẫn chưa rời khỏi thể xác, nghe âm thanh than thở của vợ mà tâm ông sinh luyến ái, sau khi thần thức rời khỏi thể xác. Vì tâm niệm luyến ái đó ông liền hóa sinh thành một loại sâu sống trong lỗ mũi của bà. Một thời gian sau bà cảm thấy khó chịu, phát hiện trong mũi mình có con sâu nên muốn lấy nó ra mà giết. Nhân đó có một vị cao tăng gọi bà ta mà bảo: “Hãy thương xót chồng bà”. Bà ta kinh sợ hỏi nhân duyên vì sao? Vị tăng nói: “Chồng bà bình thường giữ giới phụng trì Tam Bảo đáng lẽ phải sinh thiên. Nhưng vì do bà khóc lóc, làm cho tâm chồng bà sinh luyến ái nên đọa làm con sâu sống trên thân bà như vậy!”. Nghe nói như vậy bà thấy thương xót vô cùng, thỉnh cầu vị tăng nên vị chồng bà mà nói pháp. Nhân vì nghe được Phật pháp, sau đó con sâu qua đời được sinh về thiên giới.
Qua hai câu chuyện trên đều do Kinh nói hoàn toàn có căn cứ. Ðối với các tập tục cổ hủ nói ra thì hoàn toàn không có bằng chứng. Chúng tôi nhân vì chỗ mê tín dị đoan mà mạnh dạn nói ra sự thật miễn sao cho người mất về sau không còn đọa vào ba đường ác nữa. Vì thế sau khi người chết vừa qua đời, thân thể chưa hoàn toàn lạnh hẳn. Chúng ta là người gia quyến, nhất định không được khóc lóc và chạm vào thân thể người mất. Ðiều tốt nhất nên theo sự chỉ đạo của đoàn trợ niệm. Trường hợp không có đoàn trợ niệm thì gia quyến hết sức cẩn thận và nhẹ nhàng êm dịu phải xem đến lúc nào thi thể lạnh hẳn mới bắt đầu thay y phục tắm rửa cho người mất.
TRỢ NIỆM VẤN ÐÁP
Hỏi: Xin cho biết ý nghĩa của hai chữ “trợ niệm”?
Ðáp: Trợ: là giúp đỡ. Niệm: là chánh niệm, nghĩa là cùng nhau hợp lại trợ giúp cho người lâm chung chánh niệm hiện tiền.
Hỏi: Thế nào là “chánh niệm”?
Ðáp: “Chánh niệm” hay nói đúng hơn là “Tịnh niệm” đều chỉ cho tâm nhớ Phật và niệm Phật, không cùng lục trần tiếp xúc, chính vì nhân tâm niệm Phật nên dẫn đến duyên tâm thanh tịnh, mà chính cái duyên thanh tịnh dẫn đến vãng sinh nên gọi là chánh niệm.
Hỏi: Vì sao người lâm chung cần người khác trợ niệm?
Ðáp: Lúc con người đến giờ phút sắp lâm chung là lúc tứ đại phân ly, các khổ não bắt đầu bức bách, tay chân co rút nên người xưa thường so sánh như cái khổ của con cua rơi vào chảo nước sôi vậy. Bình thường có công phu niệm Phật nếu chưa thuần thục đến giờ phút quan trọng này, ai mà không cần trợ giúp? Bình thường nếu người lâm chung có công phu niệm Phật khoảng 6, 7 phần thì đến giây phút này thì sự dụng công cao lắm là 2, 3 phần thôi. Hà huống gì là người bình thường không có công phu lại không cần trợ niệm hay sao? Chỗ cần hiểu là người lúc lâm chung chỉ có mảy may làm chủ chính mình, mà hoàn toàn nương theo sự trợ giúp của người khác niệm Phật.
Hỏi: Khi người bệnh đã tắt thở rồi vì sao người trợ niệm cần phải niệm Phật?
Ðáp: Bởi vì tuy người bệnh đã chết, tuy hơi thở không còn, song thần thức của người đó vẫn chưa hoàn toàn lìa khỏi thể xác, chỗ tái sinh của họ vẫn chưa được quyết định, cho nên sự trợ giúp cho người mất niệm Phật có công dụng vô cùng thù thắng. Chúng ta từ đời vô thỉ kiếp đến nay đã tạo các ác nghiệp và thiện nghiệp vô lượng vô biên, niệm ác này qua thì niệm thiện liền đến niệm niệm tương tục không gián đoạn, niệm ác thì chiếm phần lớn, còn niệm thiện vô cùng ít ỏi. Con người đến lúc lâm chung tâm niệm vô cùng quan trọng, nếu khởi niệm ác thì liền rơi vào ba đường ác, còn khởi niệm thiện thì cảnh giới thiện hiện ra, sau đó tùy nơi mà sinh vào hoàn cảnh thiện. Nếu người biết khởi tín tâm niệm Phật cầu sinh Tây phương liền thấy Phật A Di Ðà cùng thánh chúng hiện ra tiếp dẫn, nhân đó mà được vãng sinh Tịnh độ. Tóm lại việc cốt yếu của việc trợ niệm là tạo cho người lâm chung chánh niệm niệm Phật để vãng sinh. Một khi đã vãng sinh thì vĩnh viễn xa rời thế giới sinh tử Ta Bà mà hưởng vô lượng sự vui sướng thù thắng ở Cực Lạc. Vì vậy sự trợ niệm vào giờ phút lâm chung vô cùng thù thắng.
VẤN ÐỀ NHẤT NIỆM VÃNG SINH TÂY PHƯƠNG
Hỏi: Thế giới Tây phương Cực Lạc xa đến mười vạn ức cõi Phật. Người lâm chung niệm Phật làm sao một niệm mà vãng sinh về đó được?
Ðáp: Người niệm Phật đến giờ phút lâm chung nhất niệm vãng sinh Tây phương. Nhân vì ba sức mạnh không thể nghĩ bàn.
Một là Phật lực: Ðức Phật với lòng đại từ, đại bi, cùng với 48 lời nguyện nhiếp thọ chúng sinh tín nguyện niệm Phật được vãng sinh Tây phương.
Hai là Tâm lực: là sức nguyện của tâm tha thiết của chúng ta. Tâm lực lại có ba nghĩa:
1. Tâm thể: Là bản thể thanh tịnh của tâm, tâm thể này cùng với chư Phật không mảy may sai khác. Chỉ vì chư Phật thường thường giác ngộ không mê muội như chúng sinh, lìa trần hợp giác, tâm thanh tịnh, vốn đầy đủ vô lượng công đức trí tuệ, chúng sinh thì ngược lại thường mê không ngộ, lìa giác hợp trần, tâm đầy dẫy nhơ nhớp, đầy đủ vô số phiền não và nghiệp cảm. Nếu chúng ta có thể phát khởi tâm niệm Phật, thì giờ phút niệm Phật ấy là lìa mê mà quay về tịnh giác, tức là hiệp giác.
Lúc đó vô lượng các phiền não và nghiệp cảm trở nên thanh tịnh, khiến phát sinh vô lượng công đức và trí tuệ, tâm thể niệm Phật trở nên đồng với tâm thể của Phật. Cho nên cổ đức có nói rằng: “Nhất niệm tương ứng nhất niệm Phật. Niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”. Vậy Thánh nhân và phàm phu đồng một tâm thể, chư Phật và chúng sinh cũng vậy, niệm Phật là thành Phật, ví như việc nấu gạo là thành cơm vậy, đây là nói về sự.
2. Tâm lượng: tâm lượng thì rộng lớn vô biên. Trong Kinh có nói: “Tâm bao quát cả thái hư, dung chứa vô lượng thế giới”. Vì sao tâm lượng lại rộng lớn như vậy? Trong Kinh có nói: “Trong vũ trụ không thể kể hết các thế giới sát vi trần số thế giới của chư Phật. Một trong các thế giới đó có một thế giới tên gọi là Phổ Chiếu Sí Nhiên Bảo Quang Minh. Thế giới này lại có 20 cõi thế giới, thế giới Ta Bà chúng ta cách thế giới Cực Lạc 10 vạn ức cõi Phật. Khoảng cách này tương đồng với tầng thứ 13 của thế giới Phổ Chiếu Sí Nhiên Bảo Quang Minh so với Ta Bà thế giới. Ðiều này cho thấy chỉ có một thế giới lớn lao như vậy, hà huống gì cả sát na vi trần cõi nước của chư Phật lại lớn lao biết chừng nào! Hằng hà các thế giới ở trong thái hư, mà vũ trụ thường ở tại tâm lượng của mỗi người. Ðiều này ta thấy tâm lượng của mỗi người rộng lớn vô biên, hàm chứa cả vũ trụ và nhiều thế giới khác. Như vậy đối với người niệm Phật vào giờ phút lâm chung chỉ một niệm vãng sinh Tây phương là điều hoàn toàn không còn nghi ngờ.
3. Tâm đầy đủ: Một niệm của tâm đầy đủ mười pháp giới: Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, Trời, người, A tu la, ngạ quỷ, súc sinh, địa ngục. Mười pháp giới này chỉ trong một tâm niệm của chúng ta mà tạo thành nó. Nếu tâm niệm tạo thập ác thì rơi vào ba đường dữ, nếu tạo tâm niệm thập thiện thì rơi vào ba đường lành: Trời, Người, A tu la. Nếu niệm Phật A Di Ðà thì về với cõi Phật. Vì thế trong Kinh có nói: “Nếu tâm nghĩ Phật thì tâm là Phật”. Ta có thể đổi câu trên lại: “Nếu tâm nhớ nghĩ chúng sinh thì tâm là chúng sinh”. Cho nên nếu tâm ta nghĩ Phật, nhớ Phật thì làm Phật, tâm niệm Phật sẽ thành Phật vậy thôi. Chỗ quan trọng là chúng ta phải biết được tâm thể chúng ta vốn đầy đủ công đức trí tuệ như Phật. Nếu niệm Phật thì chắc chắn thành Phật. Ðã hiểu được như vậy thì không còn nghi ngại gì cả. Tuy phân thành ba loại như vậy nhưng ba tâm: tâm thể, tâm lượng và tâm đầy đủ, không thể lìa nhau mà có, mà chúng nương nhau. Trong mỗi tâm đều có hai mặt hai tâm kia và ngược lại, Do tâm có công dụng diệu ngộ như vậy nên không thể nghĩ bàn được.
Ba là pháp lực: Là sự cảm ứng đạo giao không thể nghĩ bàn. Phàm là người niệm phải tin sâu, nguyện thiết, hành chuyên, cộng với ba lực: Phật lực, pháp lực, tâm lực chúng sinh thì hợp lại không thể nghĩ bàn.
Như vậy việc người lâm chung niệm Phật một niệm có thể vãng sinh Tây phương là điều không còn nghi ngờ gì nữa.
NHỮNG ÐIỀU MÀ NGƯỜI TRỢ NIỆM CẦN PHẢI BIẾT
1.- Phát tâm trợ niệm giúp người khác được vãng sinh Tây phương là việc thay thế chư Phật rộng độ chúng sinh thoát khỏi sinh tử luân hồi, là việc vô cùng lớn lao. Công đức này không thể nghĩ bàn. Vì vậy phải hết sức cẩn thận nếu không sẽ làm mất đi nhân duyên vãng sinh của người lâm chung! Xin hãy cẩn thận! Xin hãy cẩn thận!
2.- Khi đến nhà người lâm chung, trước tiên hãy mời toàn thể gia quyến đến để nói cho họ biết đây là thời điểm vô cùng quan trọng của người lâm chung. Vì họ đang ở ngưỡng cửa của siêu thăng hay đọa lạc. Trách nhiệm này là của toàn thể gia quyến, nếu gia quyến muốn người lâm chung được siêu thăng không đọa lạc thì mỗi mỗi sự việc đều tuân thủ theo sự chỉ đạo của ban hộ niệm, không được làm điều gì trái lại, đó là việc để người lâm chung nhất định được vãng sinh Tịnh độ.
3.- Khi vào trong phòng người bệnh, ban hộ niệm phải có thái độ thành khẩn, lời nói ôn hòa, để người bệnh nghe được tâm lý không hoài nghi. Trước tiên nên ôn lại và tán thán những việc lành mà bình thường người bệnh đã tạo, khiến cho tâm họ phát khởi sự hoan hỷ, kế đến nói về công đức và bốn tám lời nguyện của Phật A Di Ðà, cùng cõi Cực Lạc vui sướng, làm cho người bệnh sinh vui mừng và phát khởi chánh tín cầu sinh Tây phương. Người trợ niệm nên xem người bệnh như thể người quyến thuộc để có thể có tâm thành khẩn tha thiết. Tuy nhiên, đời nay tuy không phải quyến thuộc của họ mà có thể đời trước, hoặc nhiều đời trước họ đã từng là quyến thuộc của chúng ta. Vì vậy trong Kinh Phạm Võng có nói: “Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta”, điều này bằng con mắt phàm phu chúng ta trong đời sống hằng ngày không thể nhận ra được, chớ hoàn toàn giữa ta và người bệnh lại không có quan hệ hay sao?
4.- Trong phòng người bệnh, ngoại trừ người khai thị ra, không để một lời nói hay một người nào ở lại, không được nói chuyện tạp gì vì khi họ nghe được làm phân tâm, mất đi chánh niệm. Nếu như có bà con thân quyến đến thăm nom thì người trợ niệm nên hỏi họ: “Có phải anh (chị) đến đây vì trợ niệm hay không?”. Nếu họ bảo phải thì mời họ cùng trợ niệm. Bằng không thì gia quyến phải nói rõ cho họ biết để khỏi mất lòng, nên mời họ đến phòng khách tiếp đãi vì khi người bệnh thấy được họ chắc chắn sinh ra sự luyến ái làm mất chánh niệm. Ðây là trách nhiệm của người trợ niệm, không nên vì sợ mất lòng, vì làm chướng ngại cho sự chánh niệm của bệnh nhân, làm mất đi khả năng vãng sinh Tây phương. Ðiều này là hoàn toàn trái với bản hoài độ sinh của chư Phật, lại không thích hợp với tôn chỉ của người trợ niệm.
5.- Lúc trợ niệm hoặc niệm bốn chữ “A Di Ðà Phật” hoặc niệm sáu chữ “Nam mô A Di Ðà Phật”. Niệm nhỏ hay lớn, thấp hay cao nên hỏi qua người bệnh là tốt hơn cả. Nếu như bệnh nhân bị cấm khẩu, vậy thì không nên niệm Phật quá nhanh, nếu nhanh thì nghe không rõ ràng, cũng không nên quá chậm vì chậm sẽ gây nên hôn trầm, cũng không nên quá cao, nếu cao thì người trợ niệm không thể trì niệm lâu dài và cuối cùng cũng nên đừng thấp quá, nếu thấp quá sẽ nghe không rõ ràng. Vì vậy người trợ niệm nên niệm không cao, không thấp, không nhỏ cũng không to, mà nên niệm từng câu, từng câu rõ ràng, từng chữ từng chữ khoan thai, khiến cho thần thức người bệnh nghe từng chữ từng câu rõ ràng. Niệm Phật như vậy mới là chân chính trợ niệm. Không nên tùy tiện theo ý nghĩ riêng mà niệm, lúc thì cao, lúc thì thấp, lúc nhanh lúc chậm, trợ niệm như vậy thì người bệnh không lợi ích chi. Tóm lại, chúng ta phải hiểu rằng nguyên nhân trợ niệm cho người lúc lâm chung vì họ khí lực cạn kiệt suy sụp không thể tự mình khởi lên ý niệm nhân duyên niệm Phật mà họ hoàn toàn nhờ vào sự trợ giúp của tha nhân niệm hồng danh A Di Ðà Phật. Vì vậy chúng ta cần phải niệm rõ ràng, làm cho tâm người bệnh, niệm niệm quay về an trú trong câu niệm Phật, luôn luôn thấy rõ hết thảy sự việc, và luôn chánh niệm. Niệm niệm tương tục không gián đoạn, đến lúc lâm chung nhất niệm niệm Phật, liền được vãng sinh. Ðây cũng là trách nhiệm chung của chúng ta thay thế Ðức Phật nhiếp độ chúng sinh thoát khỏi sinh tử luân hồi.
6.- Có khi trợ niệm trong một thời gian đã lâu, bỗng nhiên người bệnh tinh thần trở nên tỉnh táo, hoặc có thể nói chuyện, hoặc than thở, hoặc cơ thể có thể hoạt động và nhiều dấu hiệu khác. Trong trường hợp này người trợ niệm nên biết đây là dấu hiệu cho thấy trong vòng khoảng 2 giờ nữa họ sẽ tắt thở. Ví như một ngọn đèn dầu, dầu trong đèn từ từ cạn thì ánh sáng cũng do đó từ từ mà tắt. Nhưng trước khi dầu hoàn toàn hết thì tự nhiên ngọn đèn bùng lên trong giây lát rồi mới tắt. Thỉnh thoảng nghe nói có trường hợp người bệnh như trên, vì người trợ niệm chưa có kinh nghiệm nhận thức nên ngừng việc trợ niệm, trường hợp này hết sức nguy hiểm. Vì vậy chúng ta là những người trợ niệm cần nhận thức rõ vấn đề nêu trên.
7.- Khi ban trợ niệm vừa mới đến nơi mà gặp trường hợp bệnh nhân vừa mới tắt thở hoặc đã tắt thở trước đó một, hai hoặc ba tiếng đồng hồ, người trợ niệm nên biết đây là giây phút vô cùng quan trọng, tốt nhất trước tiên lớn tiếng khai thị, sau đó mới bắt đầu trợ niệm. Vì sau khi người bệnh tắt thở, không luận là thân quyến có khóc hay là không, tâm họ luôn luôn rối loạn. Nếu lớn tiếng khai thị tâm của họ, có thể biết được do hai nguyên nhân sau :
1.- Tâm người bệnh có quy y (quy vào danh hiệu Phật) nên biến phiền não thành chánh định. 2.- Cũng đã có phát nguyện cầu sinh Tây phương (tâm vui vẻ nghe danh hiệu là có thể sinh Tây phương).
Người khai thị nên lớn tiếng hướng dẫn họ như sau: “Hỡi ông (bà) gì! Mọi chuyện lành dữ trong quá khứ xin ông (bà) đừng nên suy nghĩ đến nữa, tài sản con cháu trong nhà hãy nên xả bỏ, không nên mảy may một niệm chạy theo, một lòng niệm Phật A Di Ðà để được vãng sinh sang cõi Cực Lạc. Tất cả chúng tôi sẽ niệm Phật trợ niệm cho ông (bà), ông (bà) nên dồn hết tâm lực nghe câu niệm Nam mô A Di Ðà Phật. Hãy an trụ vào đó mà vãng sinh Cực Lạc”. Sau khi khai thị xong là bắt đầu trợ niệm ngay. Nếu như người làm chung bình thường có tín nguyện niệm Phật cầu vãng sinh Tây phương thì nhất định được vãng sinh Tây phương. Nếu như bình thường có tín nguyện cầu sinh Tây phương thì nghe được danh hiệu trợ niệm thì công đức không thể nghĩ bàn. Như trong Kinh Ðịa Tạng có nói: “Người nào lúc lâm chung, nghe được một danh hiệu Phật, có thể tiêu trừ được trọng tội vô gián địa ngục”. Cho nên người trợ niệm vào giây phút lâm chung công đức niệm Phật thật lớn lao thay.
NHÂN QUẢ THÙ THẮNG CỦA NGƯỜI TRỢ NIỆM
Có nhân thì có quả, có quả thì tất phải có nhân. Chúng ta nếu có thể phát tâm trợ niệm cho người vào giờ phút lâm chung được vãng sinh Tịnh độ thì trong tương lai đến giây phút lâm chung của chúng ta thì tự nhiên có người phát tâm trợ niệm trở lại cho chúng ta được vãng sinh Cực Lạc. Chúng ta trợ niệm cho người là nhân, niệm Phật khiến người lâm chung được vãng sinh Tịnh độ là duyên. Trong tương lai người được chúng ta trợ niệm được vãng sinh, đến lúc lâm chung của chúng ta thì nhất định họ sẽ theo Phật A Di Ðà cùng đến tiếp dẫn, đồng thời dùng thần lực gia hộ cho chúng ta, khiến cho chúng ta không mất đi chánh niệm mà được vãng sinh Cực Lạc. Lại nữa, thường thường chúng ta hay đi trợ niệm cho người được vãng sinh, do đó những đặc điểm lợi hại lúc lâm chung, chúng ta thường biết rõ hơn ai hết, cho nên trong tương lai đến lúc lâm chung của chúng ta nhất định chúng ta có thể vận dụng những kinh nghiệm hiểu biết đó đúng theo pháp, không để phát sinh bất kỳ một sự việc nào làm cản trở việc vãng sinh của chúng ta.
Như chúng ta đã biết, Ðức Phật sở dĩ xuất hiện ra đời là độ thoát tất cả chúng sinh đều được thành Phật. Thích Ca Như Lai thuyết pháp 49 năm, Ðức Phật A Di Ðà phát 48 lời nguyện, trang nghiêm cõi Cực Lạc.
Tất cả những pháp môn khác trong Phật giáo đều nương vào tự lực. Người tu tập phải đoạn dứt hết tất cả các phiền não mới có thể thoát khỏi sinh tử thật là khó thực hành. Ðối với pháp môn Tịnh độ, Ðức Phật A Di Ðà có nguyện lực tiếp dẫn người niệm Phật vãng sinh Cực Lạc, mà không đoạn dứt phiền não mà vẫn thoát khỏi luân hồi sinh tử, thật là pháp môn dễ tu tập thay. Chúng ta hiện tại thường hay trợ niệm cho người được vãng sinh là đang thay thế cho chư Phật đảm nhiệm trọng trách độ thoát chúng sinh công đức thật lớn lao vô cùng. Ðây là cái nhân giúp cho chúng ta trong tương lai được vãng sinh vậy.
VẤN ÐỀ SẠCH SẼ TRONG PHÒNG NGƯỜI BỆNH
Trong phòng bệnh nhân nên quét dọn sạch sẽ, đối với những vật không cần thiết nên dọn đi, càng sạch càng trống càng tốt. Một là khỏi làm người bệnh động tâm, hai là tiện lợi cho việc ra vào của người trợ niệm thoải mải. Nếu bệnh nhân tâm thức còn tỉnh táo nên khuyên họ hướng về phía Tây, nằm kiết tường phía bên hông tay phải, tâm tưởng đến việc vãng sinh. Nếu như người bệnh bị bệnh khổ đau đớn bức bách, tâm không thể an định, thì mọi việc nên thuận theo họ chớ nên miễn cưỡng.
Nếu như người bệnh tự mình biết được làm sao mới có thể làm cho tâm an định làm sao mới có thể duy trì chánh niệm. Nên tùy theo tâm ý của họ. Trước giường nên thiết lập tượng Tây phương Tam Thánh hoặc tôn tượng Phật A Di Ðà. Trước tôn tượng cần phải cúng dường hương hoa quả phẩm. Tượng Phật nên cho quay về hướng đối diện với mặt người bệnh, để họ sinh tâm kính ngưỡng.
Nếu bệnh nhân có đại tiểu tiện thì thân quyến nên lau chùi sạch sẽ ngay. Khi bệnh nhân sắp tắt thở, trên thân của họ nếu có tiểu tiện dơ dáy thì chớ nên lau rửa, hãy lo niệm Phật trợ niệm, dù có hôi hám như thế nào thì người trợ niệm cần phải hiểu rằng việc trợ niệm là đảùm nhiệm trách nhiệm thay thế Như Lai độ chúng sinh thoát khỏi sinh tử là việc vô cùng quan trọng, há chỉ vì một chút duyên hôi hám mà bỏ đi trách nhiệm hay sao? Ðối với mỗi chúng ta đến lúc lâm chung thân thể hư hoại, ai có thể tự cho rằng mình không có sự nhơ nhớp? Nếu cứ nghĩ tưởng như vậy thì tâm chúng ta không còn quan tâm đến sự hôi hám nữa. Ðối với sự dơ bẩn trên thân người bệnh phải chờ đến khi thi thể lạnh hẳn toàn thân sau đó mới tắm rửa.
Ðối với tượng Phật đặt trước giường người bệnh nếu có dơ dáy cũng không được lau chùi, có thể chiếu cố vì sợ bệnh nhân lúc tắt thở mất chánh niệm nên mất đi cơ hội vãng sinh, điều này dù tượng Phật có dơ dáy cũng không mang tội.
PHÁ TRỪ NGHI CHƯỚNG
Nếu bệnh nhân bệnh tình nặng nề, nên hỏi họ xem còn vướng mắc việc gì hay không. Nếu có thì nên giảng giải, sớm giải quyết cho họ để không còn chướng ngại việc vãng sinh. Nếu bệnh nhân không có việc gì vướng mắc vậy thì nên hỏi họ một lần rồi sau đó không nên hỏi nữa, vì sợ làm phân tâm họ mất đi chánh niệm. Hãy chú ý, Chú ý!
Nếu bệnh nhân có sự nghi ngờ hỏi: “Tôi phát tâm niệm Phật, thời gian chưa được bao lâu, lại sợ nghiệp chướng tội nặng nề, không hiểu có được vãng sinh hay không?”. Nên trả lời với họ rằng: “Việc phát tâm niệm Phật sớm hay muộn không thành vấn đề, điều quan trọng từ khi phát tâm cho đến giờ phút lâm chung tâm không thối chuyển mới là quan trọng. Vậy đến lúc lâm chung của ông, gặp được nhân duyên thiện hữu khai thị, mới có thể phát tâm niệm Phật, điều này cũng tốt lắm. Trong Kinh Vô Lượng Thọ, Phật có nói: “Người bình thường tạo nghiệp chướng rất nhiều lại nặng nề đến giây phút lâm chung, gặp được thiện hữu khai thị, mới phát tâm niệm Phật, có thể vãng sinh Tây phương”. Trong Kinh này cũng có nói: “Niệm một câu A Di Ðà Phật có thể tiêu trừ 80 ức đại kiếp trọng tội!”. Cho nên việc phát tâm niệm Phật dù chưa lâu dài lại tội chướng nặng nề, tâm không nghi ngại, chỉ cần nhất tâm niệm Phật, quyết chí nguyện cầu sinh Tây phương, đến giờ phút lâm chung, nhất định được thấy Phật A Di Ðà đến tiếp dẫn vãng sinh không nghi ngờ.
Nếu như người bệnh có tâm niệm luyến ái quyến thuộc và tham trước tài sản. Nên đối trước họ mà nói: “Chúng ta làm người sống trong cõi Ta Bà này thật khổ sở vô cùng tận, ai sinh ra rồi cũng già, rồi cũng bệnh, rồi cũng chết, sự khổ ấy không thể kể hết vì nó vô cùng vô tận. Ðược vãng sinh Cực Lạc thì thoát khổ mà còn an vui vĩnh viễn, lại có thể trở lại độ cho gia quyến cũng được vãng sinh, cùng an hưởng hạnh phúc lâu dài. Vì vậy ông (bà) không nên quyến luyến con cháu và tham đắm tài sản mà làm trở ngại cho việc vãng sinh của mình, lại mất đi việc đời đời kiếp kiếp của gia quyến và những người khác.
Nếu bệnh nhân có tâm nghi ngờ hỏi rằng: “Tôi niệm Phật mà sao chẳng thấy Phật?”. Họ lại hỏi: “Khi tôi lâm chung không biết có được Phật A Di Ðà đến tiếp dẫn hay không?”. Vậy người trợ niệm nên vì họ mà giảng: “Hiện nay được thấy Phật hay chưa được thấy Phật là điều không có quan hệ. Nếu hiện tại chưa được thấy Phật thì lúc lâm chung nhất định thấy Phật. Ðiều quan trọng là sáu chữ Nam mô A Di Ðà Phật niệm niệm hiển lộ trong tâm ông, đến lúc lâm chung thì Phật A Di Ðà tự nhiên ở trong tâm ông hiện ra tiếp dẫn. Xin ông (bà) cần lưu tâm niệm Phật, không nên sinh tâm nghi ngờ, nếu còn một mảy may nghi ngờ thì ông (bà) với Phật cách xa còn làm chướng ngại cho việc vãng sinh. Nếu ông (bà) không sinh tâm nghi ngại mà nhất tâm niệm Phật thì nhất định có sự cảm ứng đạo giao, không nghi ngờ việc vãng sinh. Phải biết rằng người tu Tịnh độ đến giây phút lâm chung thấy Phật hiện tiền, thời gian có sớm có muộn. Sớm thì thấy trước một hoặc hai ngày, hoặc vài tiếng đồng hồ hay trong chốc lát, thời gian hoàn toàn không giống nhau. Nếu trễ thì ngay sau khi tắt thở Phật mới hiện ra (chỉ trong một sát na). Lúc Phật hiện ra cũng là lúc người niệm Phật được vãng sinh.
Nếu bệnh nhân ban đêm và ban ngày hoặc trong khi niệm Phật, hoặc nằm mộng thấy những hình thù ghê gớm, hoặc nghe những âm thanh kỳ quái, tâm sinh kinh sợ làm trở ngại cho chánh niệm. Vậy người trợ niệm nên vì họ mà nói: “Những âm thanh, hình tướng kỳ quái này là oan gia nhiều đời do ông (bà) sát hại mà đến. Nay họ biết được ông (bà) niệm Phật cầu sinh Tây phương, nên hiện ra các cảnh giới xấu ác khiến cho tâm ông (bà) lo sợ, làm trở ngại cho việc vãng sinh. Vì thế ông (bà) đừng sợ họ, không chạy theo các hình ảnh và âm thanh, chuyên tâm nhất ý vào câu Nam mô A Di Ðà Phật. Niệm niệm khẩn thiết chí thành, không cho gián đoạn thì các loại oan nhân không có chỗ nương tựa, tự nhiên tiêu trừ”.
Nếu đến phút lâm chung thấy ông bà cha mẹ, tổ tiên hay người thân quyến hiện ra tiếp dẫn, nên biết rằng họ đều là do quỷ thần từ ba đường ác biến hóa mà thành để lừa gạt chúng ta rơi vào ba đường ác. Vì vậy chúng ta cũng nên chuyên tâm vào câu niệm Phật thì họ tự nhiên biến mất. Nếu thấy thiên nhân và thần nhân hiện ra tiếp dẫn đưa ta về quốc độ của họ phải hết sức cẩn thận đừng để một mảy may tâm niệm dao động theo họ mà chỉ khi nào Phật A Di Ðà hoặc Quán Thế Âm Bồ Tát và Ðại Thế Chí Bồ Tát hiện ra tiếp dẫn mới được. Nên biết rằng Phật A Di Ðà do từ tâm niệm Phật được thanh tịnh hiện ra tiếp dẫn ông (bà), mà cũng do tâm ông (bà) chuyên tâm niệm Phật được thanh tịnh mới được vãng sinh. Hãy chú ý! Chú ý!.
KHAI THỊ CHO NGƯỜI LÂM CHUNG
Ông (bà) nên hiểu rằng không luận là người nào, hai việc bệnh khổ và tử vong là điều không thể tránh được. Nếu ông (bà) có bệnh khổ thì không nên để tâm vào bệnh khổ đó mà hãy chuyên tâm nhất ý niệm Nam mô A Di Ðà, niệm niệm rõ ràng, tưởng đến việc vãng sinh thì bệnh khổ tự nhiên giảm nhẹ bình thường.
Người niệm Phật chúng ta, đến giây phút lâm chung bất luận là việc gì đều nên buông xả để tâm được thanh thản nhẹ nhàng, chỉ nương tựa vào một câu Nam mô A Di Ðà, thanh minh rõ ràng, niệm niệm chấp trì danh hiệu thì khoảng 3 ngày, 5 ngày, cho đến 7 ngày được vãng sinh. Từ đầu chí cuối chỉ một tâm niệm cầu sinh Tây phương nếu có thể y theo lời tôi nói, thì tôi bảo đảm ông (bà) nhất định được vãng sinh, không nên giống như người thế tục không có sự hiểu biết đến lúc lâm chung nếu có bệnh khổ chỉ kêu mẹ kêu cha, chỉ cầu thiên thần, quỷ thần giúp đỡ, đây là sự mê lầm vô cùng lớn lao. Chúng ta cần hiểu rằng người niệm Phật lúc lâm chung, không luận có bệnh hay là không. Cốt yếu là nên cầu lòng từ bi của Phật A Di Ðà sớm đến tiếp dẫn. Còn Thiên, Thần, Quỷ chỉ nằm trong lục đạo luân hồi, là còn sinh tử, làm gì có sức mạnh năng lực mà ông (bà) cầu nguyện, cầu thoát khỏi sinh tử luân hồi?
Chỉ có lòng từ bi và 48 lời nguyện của Phật A Di Ðà cùng năng lực và thần thông quảng đại của Ngài mới có thể cứu độ chúng ta thoát ly sinh tử được. Nếu ông (bà) còn ôm lòng cầu nguyện thiên thần, quỷ thần giúp đỡ thì hãy nên xả bỏ đi, nhất tâm niệm Phật cầu sinh Tây phương. Còn quý ông (bà) thọ mạng chưa hết thì niệm Phật có thể tiêu trừ nghiệp chướng của mình, như vậy bệnh cũng đã hóa vui rồi. Bằng ngược lại thọ mạng ông (bà) đã hết thì ông (bà) nhất định vãng sinh. Giá như niệm Phật chỉ cầu lành bệnh mà không cầu sinh Tây phương thì dù thọ mạng ông (bà) đã hết thì Tây phương khó mà sinh, hoặc thọ mạng chưa hết, bệnh nhất thời khó mà lành, song chẳng những không tốt mà sự khổ vì bệnh lại càng gia tăng. Ông (bà) cần hiểu rằng: Chúng ta sống ở cõi Ta bà ô trược này phải chịu nhiều khổ não hay sao? Nếu được vãng sinh thì thọ hưởng được nhiều vui sướng hay sao? Nếu ông (bà) còn có tâm cầu khẩn trời, thần, quỷ gia tâm giúp đỡ, điều này cho thấy ông (bà) còn sợ chết, nếu còn tâm sợ chết thì tâm ông (bà) cùng với tâm nguyện của Phật A Di Ðà cách xa nhau. Vì thế Tây phương khó mà sinh được, phải chịu khổ hải sinh tử mãi mãi, không có ngày xuất ly.
Nếu ông (bà) còn tâm sợ chết thì tự trách mình. Tại sao ta đã phát tâm niệm Phật, quyết chí cầu sinh Tây phương làm sao còn đeo mang tâm niệm sợ chết tự mình làm chướng ngại cho việc vãng sinh của mình? Vì vậy mình muốn vãng sinh thì nên khẩn thiết nhất tâm niệm Phật cầu Phật từ bi sớm đến tiếp dẫn.
Tóm lại bệnh khổ phát hiện lúc lâm chung, là do oan gia ác nghiệp nhiều đời của chúng ta sở cảm, họ hiện ra ngăn cản nên phát hiện thành nhiều loại khổ não khiến tâm chúng ta sinh phiền não, làm chướng ngại cho việc niệm Phật vãng sinh. Nếu chúng ta hiểu rõ được như vậy thì không bị các loại ma chướng sở chuyển. Ðiều tốt nhất là chúng ta nên chí thành khẩn thiết niệm Phật, niệm niệm không buông lơi, dồn hết tâm lực nương tựa vào danh hiệu Nam mô A Di Ðà Phật thì được vãng sinh Tịnh độ.
QUYẾT NGHI VỀ BỆNH KHỔ LÚC LÂM CHUNG
Người niệm Phật đến giây phút lâm chung nếu bị bệnh khổ nặng nề hiện hành xin chớ nghi ngờ, cũng chớ nên sợ hãi. Ngay như Huyền Trang Tam Tạng Pháp sư xưa kia lúc lâm chung cũng phải chịu bệnh khổ, huống gì là hàng phàm phu chúng ta, lại không có bệnh khổ hay sao?
Chỗ cần yếu là chúng ta phải biết rằng những bệnh khổ này do ác nghiệp từ nhiều đời trước chúng ta tạo ra. Nếu chúng ta không có niệm Phật thì những oan nghiệp này sẽ chiêu cảm chúng ta đời sau phải chịu quả báo vào địa ngục. Khi chúng ta có thiện căn biết niệm Phật thì những ác nghiệp này sẽ nhờ vào lòng từ và sức gia hộ của Phật A Di Ðà mà chuyển thành nhẹ, hiện ra thành bệnh khổ tạm thời, nếu trải qua bệnh khổ rồi thì nhất định được vãng sinh. Ðiều quan trọng chúng ta nên dồn hết tâm lực vào danh hiệu, niệm niệm không gián đoạn thì dù có bệnh đi chăng nữa thì vẫn thấy bình thường.
Như vậy lộ trình đời sau chúng ta sinh địa ngục hoặc Tây phương, đều do tâm chúng ta quyết định. Nếu tùy theo bệnh khổ phiền não thì sinh địa ngục. Nếu tâm niệm Phật thì được vãng sinh. Hãy hết sức cẩn thận!
Ðối với trường hợp khi bệnh khổ, khí lực đã cạn kiệt, bốn chữ A Di Ðà Phật cũng không thể khởi niệm, vậy nên để tâm vào một chữ Phật cũng có thể được. Tâm ông (bà) nên niệm niệm duyên theo chữ Phật đó, tưởng nhớ đến việc vãng sinh. Còn nếu quả thật bệnh khổ bức bách quá trầm trọng một chữ Phật cũng không niệm được thì ông (bà) nên hết sức chí thành khẩn thiết tưởng nhớ trước mặt mình. Phật A Di Ðà từ bi đang đưa tay tiếp dẫn ta. Ðồng thời tâm tâm niệm niệm tưởng nhớ đến việc vãng sinh thì lúc lâm chung tùy theo tâm niệm đó, chúng ta được vãng sinh. Cổ đức có dạy trong Kinh Pháp Cổ: “Lúc lâm chung nếu không thể quán cho đến niệm thì chỉ nên biết đến Phật cũng được vãng sinh”.
Giải thích: Phàm phu bình thường tu tập quán tưởng, có người tu quán tượng niệm Phật, cho đến trì danh niệm Phật mà công phu chưa được đắc tam muội, cho đến nhất tâm bất loạn, song đến lúc lâm chung, vì bị bệnh khổ bức bách, thân tâm không thể an định, không thể đề khởi hay trì danh niệm Phật. Nếu có tưởng nhớ và tâm chí thành tưởng nhớ Phật A Di Ðà đưa tay tiếp dẫn và niệm niệm cầu sinh Tây phương thì lúc lâm chung được sinh về Tịnh độ.
Lời này do từ kim khẩu Ðức Thế Tôn thuyết trong Kinh Phật Cổ, chớ tôi không dám tự nói.
PHƯƠNG PHÁP TRỢ NIỆM
Ðối với vấn đề trợ niệm, trước tiên phải xem bệnh tình của bệnh nhân ra sao? Nếu chưa nặng lắm thì theo nghi thức tụng như sau :
- Tây phương phát nguyện văn của Liên Trì Ðại sư (1 lần)
- Phật thuyết A Di Ðà Kinh (1 quyển)
- Chú vãng sinh (3 lần) (tốt nhất là 21 lần)
- Bài tán Phật A Di Ðà (1 lần)
- Niệm Nam mô Tây phương... A Di Ðà Phật.
Sau đó niệm liên tục: Nam mô A Di Ðà Phật.
Nếu bệnh tình đã nguy kịch, nên niệm ngay Nam mô A Di Ðà Phật hay bốn chữ cũng được. Vấn đề pháp khí nên dùng khánh không nên dùng mõ vì âm thanh của mõ nặng nề. Ban trợ niệm ban ngày nên chia thành hai nhóm, ban đêm chia thành ba nhóm. Mỗi nhóm có ít nhất là hai người, thời gian trợ niệm cứ mỗi nhóm là 1 giờ.
Phương pháp trợ niệm : Ban ngày thì giờ đầu nhóm 1 niệm lớn tiếng, nhóm 2 niệm thầm, giờ thứ hai thì nhóm 2 niệm lớn tiếng, nhóm 1 niệm thầm, cứ vậy mà tiếp tục. Ban đêm, giờ đầu nhóm 1 niệm lớn tiếng, nhóm 2 và 3 niệm thầm hoặc nghỉ ngơi; giờ kế tiếp nhóm 2 niệm lớn tiếng, nhóm 1 và 3 niệm thầm hoặc nghỉ ngơi, giờ tiếp theo nhóm 3 niệm lớn tiếng, nhóm 1 và 2 niệm thầm hoặc nghỉ ngơi. Tiếp tục luân phiên như thế thì không luận 3 ngày, 5 ngày, 7 ngày, nửa tháng cho đến 1 tháng đều có thể trợ niệm lâu dài, vì nhóm này thay thế nhóm kia không hề mệt mỏi, làm cho tiếng niệm Phật ngày đêm không dứt.
Lúc trợ niệm, trước tiên đến trước bệnh nhân mà hướng dẫn rằng: “Tất cả chúng tôi niệm Phật đây là vì ông (bà). Vậy ông (bà) nên cùng chúng tôi đồng niệm Phật. Nếu hơi sức đã cạn kiệt không nên để tâm buông lơi theo trần cảnh mà hãy chú tâm lưu ý nghe chúng tôi niệm Phật, tai phải nghe từng câu từng chữ rõ ràng, trong tâm cũng vậy, nên để hết tâm lực vào âm thanh của danh hiệu Nam mô A Di Ðà Phật”. Thuyết như vậy xong, mới bắt đầu trợ niệm. Nếu trong lúc trợ niệm thấy bệnh nhân bị hôn trầm giống như ngủ, không thể nghe được thì người trực trong ban trợ niệm hãy dùng khánh đến gần bên tai của người bệnh gõ vài tiếng đồng thời lớn tiếng niệm Phật khiến cho người bệnh không còn bị hôn trầm.
Khi người bệnh sắp tắt thở, nếu ban trợ niệm đã có đủ người trợ niệm thì tốt nhất thân quyến nên đến trước bàn Phật A Di Ðà (trong phòng bệnh nhân) mà quỳ niệm Phật, hoặc lạy niệm, cầu xin Phật A Di Ðà phóng đại hào quang, tiếp dẫn vong linh được vãng sinh Tịnh độ. Trong lúc này thì ban trợ niệm nên chia thành hai nhóm, mỗi nhóm niệm Phật khoảng nửa giờ, từ giây phút này trở đi nên lớn tiếng niệm Phật, niệm như vậy cho đến 3 tiếng đồng hồ sau khi người chết đã tắt thở, rồi trở lại luân phiên niệm như bình thường.
Khi bệnh nhân sắp tắt thở, người trực ban trợ niệm cần lưu ý những hiện tượng sau: Nếu mặt người bệnh đổ mồ hôi hoặc nhăn nhó, thân thể co giật, thì đó là do bệnh khổ bức bách, hoặc bệnh nhân giống như ngủ không hay không biết gì cả. Gặp những trường hợp như thế, người trợ niệm cần đến gần họ mà lớn tiếng sách tấn rằng: “Này ông (bà) Tây phương Cực Lạc đang hiện tiền, hãy chú tâm niệm Phật mà vãng sinh”. Nói lớn như vậy hai lần, rồi lại quán sát xem có bất động gì hay không, nếu không thì nên gọi lại một lần cho đến ba lần như thế.
Khi bệnh nhân đã tắt thở mà thi thể vẫn chưa lạnh hẳn, người trực ban trợ niệm phải hết sức chú ý không cho một ai thăm dò trên thi thể. Nếu thân nhân khóc lóc thì yêu cầu họ nên đi chỗ khác hoặc khuyên gia đình cùng phát tâm niệm Phật, trải qua một ngày một đêm, mới có thể thỉnh các bậc trí thức có kinh nghiệm giám định xem thi thể đã lạnh hẳn chưa. Nếu đã lạnh hẳn thì mới ngừng niệm Phật, hồi hướng công đức trợ niệm cho người quá vãng được vãng sinh. Trường hợp thi thể vẫn còn nóng đến một hoặc hai cho đến ba ngày, thì gia đình cần phải phát tâm liên tục niệm Phật trợ niệm. Con cháu trong gia đình phải hiểu được như vậy. Nên phát tâm niệm Phật, không nên khóc lóc không những không có lợi chi mà còn làm mất đi cơ hội vãng sinh của người mất.
THỜI GIAN TẮM RỬA THAY QUẦN ÁO CHO NGƯỜI MẤT
Thi thể người mất đã lạnh hẳn thì sau hai giờ mới nên tắm rửa, thay y phục. Nếu các khớp xương bị cứng nên dùng khăn vải nhúng vào nước nóng đắp vào nơi đó, chỉ vài phút sau là mềm ra. Mắt không nhắm lại được, cũng làm như vậy. Ðối với vấn đề quần áo của người mất nên ăn mặc giống lúc bình thường, hợp với họ, không nên dùng quần áo quá tốt. Nếu có thương người mất chỉ cầu cho họ được vãng sinh hưởng được an vui hạnh phúc miên viễn nơi miền Cực Lạc. Ðó mới là chân thật hiếu thuận là tình thương của sự hiểu biết. Nếu cho người mất ăn mặc đẹp đẽ hơn lúc bình thường chẳng qua là để lừa dối thiên hạ, muốn họ tán thán mà thôi.
PHƯƠNG PHÁP TIẾN VONG (SIÊU ÐỘ) HAY NHẤT
Sau khi vong nhân đã vãng sinh, đối với việc siêu độ, cách hay nhất là nên trai giới mà niệm Phật. Nếu muốn có công đức lớn lao tốt nhất là thỉnh vài vị Tăng Ni (Người tu Tịnh độ) đến trợ niệm Phật. Thời gian lâu mau thì nên tùy theo hoàn cảnh gia đình mà định liệu. Ðối với việc siêu độ người mất tốt nhất gia quyến nên tham gia niệm Phật, vì gia quyến có quan hệ thân thiết hơn nên dễ giao cảm hơn. Việc niệm Phật, không luận là người xuất gia hay tại gia, nếu tâm có sự khẩn thiết chí thành thì công đức vô cùng lớn. Công đức niệm Phật mỗi ngày nên hồi hướng cho người mất được vãng sinh. Nếu người mất đã được vãng sinh thì sẽ tăng cao phẩm vị ở liên đài. Nếu như chưa vãng sinh thì nhờ vào công đức đó mà được vãng sinh. Chẳng những người mất được vãng sinh mà thân quyến lại gieo được duyên lành với Phật pháp, nếu tăng trưởng lòng tin, thực hành tu tập niệm Phật thì cũng được vãng sinh.
Ðối với người thế tục cho rằng việc tụng kinh, sám hối, niệm Phật là tầm thường... Sở dĩ như vậy là họ không hiểu Phật lý. Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật có nói: “Niệm một câu Nam mô A Di Ðà có thể tiêu trừ trọng tội của 800 vạn đại kiếp sinh tử”. Vậy ai dám bảo rằng niệm Phật là tầm thường? Lại cũng trong Kinh này, phẩm Hạ Phẩm Thượng Sinh lại ghi: “Nghe 12 bộ Kinh thì tiêu trừ 1000 kiếp ác nghiệp nặng nề”. Lại chép: “Có thể nghe niệm danh Nam mô A Di Ðà Phật trừ được vô lượng đại kiếp sinh tử trọng tội”. Trên đây là dẫn chứng những lời do chính Ðức Phật Thích Ca dạy để làm căn cứ, chứ không phải do ai nói. Như vậy những lời nói trên cho thấy rằng những người đó chưa biết công đức thù thắng của việc niệm Phật. Ấn Quang Ðại sư có dạy: “Các nhà sư hiện nay, phần lớn là bày vẽ, chẳng được như pháp. Chỉ cốt giữ thể diện mà thôi. Nếu chuyên môn niệm Phật thì người người đều biết niệm, công đức lại rộng lớn, lại thiết thực. Nếu đem công đức niệm Phật hồi hướng khắp cùng chúng sinh, đồng sinh Tịnh độ, thì công đức lợi ích đối với người mất cũng rộng lớn hơn nhiều”.
Sau khi vong nhân đã vãng sinh Tây phương, trong vòng 49 ngày thì thân quyến nên ăn chay niệm Phật, giữ gìn ngũ giới (không nên sát sinh, trộm cắp, dâm dục, nói dối cho đến bày vẽ tiệc rượu vui chơi) thì cả người sống lẫn người mất, đều được lợi ích không thể nghĩ bàn.
VẤN ÐÁP VỀ THÂN TRUNG ẤM
Hỏi: Trong đạo Phật, sau khi người nhà chết, trong vòng 49 ngày, gia quyến nên ăn chay, niệm Phật, tạo các phước lành mà hồi hướng cho người mất là ý nghĩa như thế nào?
Ðáp: Nếu vong nhân quả thật đã được vãng sinh, mà trong vòng 49 ngày gia quyến ăn chay niệm Phật, tạo nhiều phước lành (bố thí, phóng sinh, trai tăng...) hồi hướng cho người mất thì có các lợi ích sau :
1.- Một là người mất tăng cao phẩm vị ở liên trì.
2.- Gia quyến được phước đức vô lượng.
Nếu vong nhân chưa biết có được vãng sinh hay không thì có nghĩa là họ đang ở giai đoạn thân trung ấm. Do đó thời gian này gia quyến vì họ mà ăn chay niệm Phật, tạo phước lành, thì họ nương nhờ công đức này mà phát tâm cầu sinh Tây phương.
Hỏi: Trung ấm thân nghĩa là sao?
Ðáp: Sau khi người mất, thần thức rời khỏi thể xác, nhưng chưa thọ sinh, giống như người ra khỏi phòng này mà chưa vào phòng khác còn ở thời kỳ trung gian nên gọi là trung ấm. Có những trường hợp sau đây thần thức không phải qua giai đoạn thân trung ấm :
1.- Một là người đủ tín hạnh nguyện niệm Phật được vãng sinh.
2.- Người cực thiện được sinh ngay về cõi trời.
3.- Người cực ác liền đọa vào địa ngục vô gián.
Ðối với người bình thường không làm ác không làm thiện, thì phải trải qua thân trung ấm, giai đoạn thân trung ấm, thời gian lâu hay chậm tùy theo nghiệp lực của mỗi người, nhưng chậm nhất có thể là 49 ngày.
Hỏi: Phàm là người sau khi đã chết, tại sao không đi thọ sinh ngay, mà phải trải qua thời gian thân trung ấm?
Ðáp: Nguyên nhân là vì các nghiệp thiện ác nhiều đời cho đến nay chưa quyết định dứt khoát, do tâm thức của người mất lúc nghĩ thiện, lúc nghĩ ác, cứ thay nhau sinh rồi diệt, diệt rồi sinh, nghiệp ác, nghiệp thiện thay đổi không ngừng. Nếu nghiệp thiện nhiều, thì trong tâm họ phát hiện ra cảnh giới trời, người, A tu la, cảnh thiện cũng có ba phẩm: Thượng phẩm thiện (trời), trung phẩm thiện (người), hạ phẩm thiện (A tu la). Tâm thức người mất cũng tùy theo các phẩm thiện trên mà thọ sinh.
Nếu người mất nghiệp và ác nghiệp nhiều thì cũng tùy theo ba phẩm ác sau: thượng phẩm ác (địa ngục), trung phẩm ác (ngạ quỷ), hạ phẩm ác (súc sinh) mà thọ sinh không giống nhau.
Vì vậy, gia quyến đã biết được như vậy rồi, thì trong vòng 49 ngày nên ăn chay niệm Phật, tạo công đức cho người mất, khiến cho họ nương nhờ vào công đức vô lượng này mà tội chướng được tiêu trừ, tăng trưởng thiện phước, được vãng sinh Tây phương, hoặc được siêu thăng cõi trời, hoặc trở lại làm người.
Nếu gia quyến bằng ngược lại không phát tâm ăn chay niệm Phật, tu tạo phước lành, lại chuyên sát sinh, tà dâm, mở tiệc ăn nhậu, đàn ca hát xướng, đồng thời tạo vô lượng các ác nghiệp khác thì dầu cho bổn nguyện của người quá vãng dù là thiện thì cũng mất đi. Nếu vốn là ác nghiệp thì càng chồng chất thêm, khi ác nghiệp càng gia tăng thì nhất định rơi vào các đường ác tức là địa ngục, vĩnh kiếp chịu vô lượng thống khổ vậy.
Hỏi: Nếu gặp hoàn cảnh gia quyến nghèo khổ mà phải ăn chay niệm Phật làm phước trong vòng 49 ngày thì quá khó khăn. Phải giải quyết như thế nào đây?
Ðáp: Niệm Phật là công đức vô cùng lớn. Nếu gặp hành cảnh gia quyến khó khăn, thì không cần thỉnh các vị Tăng Ni, chỉ cần cả nhà ăn chay niệm Phật là đủ rồi. Thời gian niệm Phật mỗi ngày nên quy định sáng tối hai lần, sau khi niệm thì hồi hướng cho vong linh.
Phương pháp niệm Phật độ người mất, tùy theo kinh tế gia đình nên đơn giản, không làm chướng ngại cho cuộc sống mà công đức lại lớn, gia đình lại được phước đối với người mất thì hưởng lợi ích vô cùng. Kẻ mất người còn đều được lợi ích không thể nghĩ bàn.
DẪN CHỨNG KINH ÐỊA TẠNG, PHẨM “LỢI ÍCH TỒN VONG” ÐỂ LÀM LỜI KẾT LUẬN
Trưởng giả Ðại Biện chắp tay cung kính hỏi Ðịa Tạng Bồ Tát rằng: “Thưa Ðại sĩ! Chúng sinh ở cõi Nam Diêm Phù Ðề, sau khi mạng chung, nếu thân nhân quyến thuộc, vì họ mà làm phước, tạo những nhân lành như bố thí, trai tăng, niệm Phật, ăn chay, giữ giới, cúng dường Tam Bảo v.v... Thì người mất có được lợi ích, giải thoát sinh tử hay không?
Bồ Tát Ðịa Tạng đáp rằng: “Này ông trưởng giả, các chúng sinh đời hiện tại hay vị lai, đến lúc lâm chung mà nghe được danh hiệu của một Ðức Phật, Bồ Tát hay Bích Chi Phật, thì chẳng kể người đó có tội hay không có tội, đều được giải thoát (vãng sinh Tịnh độ)”. Trưởng giả lại dạy rằng: “Quỷ vô thường không hẹn mà đến, thần thức ngu mê, chưa rõ tội phước, trong vòng 49 ngày như ngây như dại, hoặc ở tại các Ty mà biện luận nghiệp quả. Sau khi thẩm định thì căn cứ theo nghiệp mà thọ sinh. Trong thời gian chưa quyết định, phải chịu trăm nghìn vạn lần sầu muộn, khổ đau, huống gì đọa vào các nẻo ác. Vong nhân chưa được thọ sinh, trong vòng 49 ngày niệm niệm mong cầu sự cứu giúp của thân quyến. Qua 49 ngày thì tùy nghiệp thọ sinh. Nếu tội nhẹ thì đọa vào ngạ quỷ súc sinh. Nếu tội nặng thì đọa vào địa ngục mà chịu khổ lâu dài vạn kiếp”. (một đại kiếp là bằng 3.440.000 năm ở nhân gian). Lại dạy rằng: “Nếu trong vòng 49 ngày mà thân quyến vì vong nhân tạo các phước đức thì có thể khiến cho họ xa lìa các nẻo ác (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh), mà sinh về cõi trời thọ hưởng sự vui sướng thù thắng, mà quyến thuộc hiện đời cũng được lợi ích vô cùng tận.
PHỤ LỤC
Hỏi: Có người bình thường tín nguyện niệm Phật, nhưng đến lúc lâm chung bị phong thất, cấm khẩu, thần thức hôn mê trong thời gian này, người trợ niệm có tác dụng hay không? Nếu có tác dụng mà người đó vẫn hôn trầm, không hay không biết, thì nói tác dụng là có tác dụng chỗ nào? Nếu không có tác dụng thì công đức niệm Phật bình thường của người mất có bị tổn giảm hay không?
Ðáp: Công đức niệm Phật không thể nghĩ bàn. Nếu người bình thường tín nguyện niệm Phật mà đến lúc lâm chung bị trúng gió cấm khẩu, thần thức hôn mê. Nếu gặp được thiện hữu trợ niệm, thì lợi ích cho người ấy không thể nghĩ bàn. Nếu thần thức trước đó chưa rời thể xác, vẫn còn tỉnh táo, có thể nghe âm thanh niệm Phật, thì có thể phát khởi tâm niệm Phật như bình thường, đến lúc làm chung, nhất định được Phật lực tiếp dẫn Tây phương không nghi ngờ.
Nếu như người chết thần thức hôn mê, sau khi thần thức lìa thể xác, do túc nghiệp chưa định, đang còn ở giai đoạn thân trung ấm. Trong thời gian thân trung ấm lại được quyến thuộc và thiện hữu niệm Phật, nương vào đó mà vong nhân nhớ lại rồi phát tâm niệm Phật như lúc bình thường thì cũng được vãng sinh Tây phương.
Nếu không được như trên, nhưng lại gặp thiện hữu trợ niệm, tuy không được vãng sinh thì thiện căn vãng sinh Tịnh độ lại được tăng trưởng, như trong kinh có chép: “Vào thời Ðức Phật còn tại thế, có một ông lão dòng Phạm Chí tên Tu Bạt Ðà La 120 tuổi, ở ngoài thành Câu Thi Na tu theo ngoại đạo, chứng được năm phép thần thông, vì được định “Phi phi tưởng” thông minh đa trí nhưng chưa xả được lòng kiêu mạn. Bấy giờ nghe Ðức Phật Niết bàn liền đến thăm nghe Phật thuyết pháp, ông nhận rõ đạo lý nhiệm mầu, chứng được A La Hán, ông xin vào hầu Phật, A Nan không cho, Ðức Phật xem biết ông này có căn lành tu hành trong nhiều kiếp lâu xa về trước, thường làm ông tiều đốn củi trên núi. Một ngày bị cọp rượt, ông sợ hãi nhảy thót lên cây, chỉ niệm một tiếng “Nam mô Phật” mà cũng chưa hết câu, từ đó trải qua vô lượng kiếp được Phật độ. Hà huống gì người bệnh niệm Phật thì sao? Cho nên công đức niệm Phật chúng ta không hề bị tổn giảm.
Hỏi: Người đến lúc lâm chung tuy có người trợ niệm nhưng không nghe biết, vậy việc trợ niệm có tác dụng gì?
Ðáp: Ðây là nguyên nhân do túc nghiệp nhĩ căn của người lâm chung đã tạo nên mới có sự việc như vậy. Lúc lâm chung tuy có người trợ niệm, không thể nghe được nhưng vẫn được vãng sinh. Vì sao? Vì tuy nhĩ căn người sắp lâm chung không nghe, nhưng tính căn của sự nghe không mất, chỉ cần tự tâm người đó tỉnh táo, tín nguyện kiên cố, dồn hết tâm lực cầu sinh Tây phương, thì nhất định lâm chung được Phật đến tiếp dẫn, lại được thiện hữu trợ niệm và công đức niệm danh hiệu Phật bất khả tư nghị, thì người ấy nhất định được vãng sinh. Giống như buồm thuận gió thì từ từ tiến lên vậy.
LỜI BẠT
Kinh nói: “Lìa ba đường ác, được thân người là khó, chúng ta ngày nay tuy được thân người, nhưng mấy ai bảo đảm thọ mạng của mình được một trăm tuổi. Sắc thân tứ đại chúng ta một ngày rồi cũng phải tán diệt, lại tùy theo nghiệp thức mà cứ thọ sinh. Như người thiếu nợ, chủ nợ theo đời. Nếu người bình sinh tạo nghiệp thiện mạnh, kiêm tu giới định huệ, sau khi chết thác sinh thiên giới, thọ mạng vạn kiếp, đến khi phước báo hết, lại bị đọa lạc, chung cuộc không có cứu cánh. Ðức Phật nhập diệt đã lâu, bậc thánh không còn, phần lớn nhân loại nghiệp chướng sâu dày, căn cơ bạc nhược, kém cỏi. Tuy cũng có thiền giáo diệu lý, nhưng ít người có thể tu tập. Nếu có tu tập ít ai mà chứng đắc. Nếu muốn liễu sinh thoát tử, siêu phàm nhập thánh, há phải làm sao đây?
Trong Kinh Ðại Tập, Phật có nói: “Ðời mạt pháp, ức ức người tu hành, ít người được đạo, duy chỉ có nương theo pháp môn niệm Phật mới được độ”. Hãy thử xem cách đây 3.000 năm, Ðức Thích Ca Như Lai cho biết như thế, Ngài thật từ bi triệt để. Ở trong tam thừa Ngài khuyên răn chúng sinh nên tu Tịnh độ. Vì Tịnh độ pháp môn phổ nhiếp ba căn: thượng, trung, hạ trí... tùy theo năng lực tu tập công đức, rồi hồi hướng phát nguyện vãng sinh Tây phương, đến lúc lâm chung đều được tiếp dẫn vãng sinh, hóa sinh trong hoa sen, thọ mạng vô lượng, từ đó tiến tu không còn thối chuyển, cho đến ngày thành Phật. Ðiều này cho thấy pháp môn Tịnh độ vô cùng thù thắng diệu kỳ. Nên được gọi phương tiện nhất trong các phương tiện, ngắn tắt nhất trong các đường tu tập. Từ xưa đến nay, người tu tập theo pháp môn này được vãng sinh, dùng toán số khó mà biết được.
Hoặc có người niệm Phật mà chưa được vãng sinh là do nhân duyên chưa đầy đủ, cho đến các mê lầm, làm mất chánh niệm dẫn đến cùng Phật cách xa, nên không được vãng sinh, không được Phật tiếp dẫn. Hoặc có người bình thường tuy có phát tâm niệm Phật, chỉ mong cầu phước báo, không phát nguyện vãng sinh. Hoặc lại có người bình thường tín nguyện không tha thiết, lại niệm Phật không thường xuyên. Hoặc lại có người lúc lâm chung, thiếu sự trợ niệm của người, hoặc có người được trợ niệm, lại bị những người nhàn rỗi nói chuyện tạp, làm cho tâm sinh phiền não bất an. Hoặc lại có người lúc lâm chung, quyến thuộc bạn bè khóc lóc kêu réo nên bị tình luyến ái dắt dẫn, khó xả bỏ được. Hoặc có người lâm chung, gia quyến thỉnh mời bác sĩ đến chích thuốc hồi sinh phải chịu khổ sở. Hoặc có người tuy đã tắt thở nhưng chưa lạnh hẳn, thần thức chưa rời khỏi thể xác, thì bị người dùng tay dò xét nóng ở nơi đâu. Lại có người sau khi lâm chung liền bị thay quần áo tắm rửa hết sức miễn cưỡng.
Trên đây là các nguyên nhân mê lầm đều có thể khiến cho người lâm chung mất chánh niệm, không được vãng sinh. Vì vậy phàm là người niệm Phật phải nên biết những điều đó. Lấy đó làm kinh nghiệm cho bản thân. Chúng tôi thiết nghĩ rằng suốt cả cuộc đời chúng ta tu tập công trình ấy thật lớn lao vô cùng. Song đến giây phút lâm chung chỉ vì gia quyến không có sự hiểu biết về Phật pháp và phương pháp trợ niệm ra sao vì thế mà mất đi nhân duyên trăm nghìn kiếp vãng sinh Tịnh độ thật là tiếc thay. Vậy mong quý vị nhất là người tu Tịnh độ hãy theo sự hướng dẫn của sách này mà khởi thực hành chắc chắn sẽ thu hoạch được nhiều lợi ích trong giờ phút lâm chung, lại thành tựu việc vãng sinh về thế giới Cực Lạc.
Mấy lời tâm huyết
Thuyết pháp giảng kinh, viết sách giáo lý nhà Phật hoặc in kinh sách đem phát cho mọi người xem, để họ sớm giác ngộ. Ðược như thế công đức vô lượng, đó gọi là pháp thí.
Nếu không đủ điều kiện làm những việc ấy, thì thỉnh một số kinh sách chịu khó đem đến từng nhà cho mượn đọc, rồi sau đó lại lần lượt cho nhà khác mượn nữa, hoặc đọc cho kẻ khác nghe, nhất là cho người không biết chữ nghe, cũng được công đức vô biên, đó cũng gọi là Pháp thí.
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thí là công đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng”.
Tưởng về lợi cũng như về danh, chúng ta đừng lo nghĩ vội, mà điều tối cần là làm sao cho rạng rỡ chánh đạo trước cái đã. Ðó là mục đích chính và thiêng liêng cao cả của chúng ta. Nền móng đạo pháp cần nhờ sự chung lưng góp sức của chúng ta. Vậy mỗi người nên xây đắp vào đó một ít vôi, một ít nước, hoặc một tảng đá hay một viên gạch v.v... ngõ hầu cái nền móng ấy được thêm bền vững và kiên cố đời đời.
Chúng ta không nên quan niệm ở công đức vô lượng vô biên, mà điều cần thiết là nên nghĩ nhiều đến những người lầm đường lạc lối, sống trong vòng đầy tội lỗi không có lối thoát, hãy mau cứu vớt họ, cảnh tỉnh họ để cùng quay về chân lý. Nếu được như thế chính ta đã làm lợi ích cho Phật Pháp vậy.
Với hoài bão cuộc đời, chúng ta hãy “Tất Cả Vì Phật Pháp”. Hy vọng mấy lời tâm huyết này được nhiều vị hảo tâm in kinh sách cho muôn dân xem.
Ðược như vậy công đức không gì sánh bằng!
Tha thiết mong mỏi như thế!
Tặng cho thân nhân một số tiền nhỏ, lòng mình không vui.. Nhưng mình không đủ sức tặng nhiều hơn. Chỉ có một cách là tặng các loại sách tu hành để xây dựng cho đời sống thanh cao, thì dù một quyển sách giá chỉ có vài ngàn, nhưng vẫn còn quý hơn bạc vạn.
Quý vị nào muốn phát tâm ấn tống kinh sách xin liên hệ:
CHÙA HOẰNG PHÁP, Xã Tân Hiệp, huyện Hóc Môn, TP. Hồ Chí Minh. ÐT: 7130002 email: hoangphap@hcm.vnn.vn
Loi Ich Cua Niem Phat
NIỆM PHẬT CÓ MƯỜI ÐIỀU LỢI ÍCH LỚN
1.- Ngày đêm thường được chư Thiên, đại lực thần tướng ẩn thân hộ trì.
2.- Thường được Quán Âm cùng 25 đại Bồ Tát bảo hộ.
3.- Người niệm Phật thường được Phật A Di Ðà phóng quang nhiếp thọ.
4.- Không bị các ác Dạ xoa não hại.
5.- Người niệm Phật sẽ không bị các nạn nước lửa, đao binh, gông cùm.
6.- Những tội lỗi đã tạo trong vô biên kiếp đều được tiêu diệt.
7.- Thường có những giấc mộng đẹp hoặc thấy Phật A Di Ðà thân vàng sáng chói.
8.- Tâm thường hoan hỷ, nhan sắc tươi vui, khí lực sung mãn, được các may mắn trong việc làm.
9.- Thường được người đời cung kính như kính Phật vậy.
10.- Lúc mạng chung, tâm không sợ hãi, chánh niệm hiện tiền, được Phật cùng chư Bồ Tát, tay cầm kim đài đến tiếp dẫn vãng sinh, hóa sinh hoa sen, hưởng thọ niềm vui vi diệu thù thắng.
1.- Ngày đêm thường được chư Thiên, đại lực thần tướng ẩn thân hộ trì.
2.- Thường được Quán Âm cùng 25 đại Bồ Tát bảo hộ.
3.- Người niệm Phật thường được Phật A Di Ðà phóng quang nhiếp thọ.
4.- Không bị các ác Dạ xoa não hại.
5.- Người niệm Phật sẽ không bị các nạn nước lửa, đao binh, gông cùm.
6.- Những tội lỗi đã tạo trong vô biên kiếp đều được tiêu diệt.
7.- Thường có những giấc mộng đẹp hoặc thấy Phật A Di Ðà thân vàng sáng chói.
8.- Tâm thường hoan hỷ, nhan sắc tươi vui, khí lực sung mãn, được các may mắn trong việc làm.
9.- Thường được người đời cung kính như kính Phật vậy.
10.- Lúc mạng chung, tâm không sợ hãi, chánh niệm hiện tiền, được Phật cùng chư Bồ Tát, tay cầm kim đài đến tiếp dẫn vãng sinh, hóa sinh hoa sen, hưởng thọ niềm vui vi diệu thù thắng.
Thursday
Xa Loi cua Hoa Thuong Thich Thien Tam
CHIẾC RĂNG XÁ-LỢI HUYỀN BÍ
của Cố HT THÍCH-THIỀN-TÂM
đưọc gọi là “Nha (xỉ) Xá-Lợi”
Ngài đã nhập thất gồm 20 năm từ 1975-1992
Sách này đáng lý đã chấm dứt sau chuyện Cụ Bà Diệu-Chánh, nhưng không rõ do một duyên gì, chúng tôi nhận được một số sách do cháu Tịnh-Hạnh gởi tặng. Trong số sách này, chúng tôi lật ra xem, nhằm ngay một bài nói về Chiếc Răng Xá-Lợi của cố Hòa Thượng Thích-Thiền-Tâm, một cao tăng Việt Nam đã đem hết đời mình xiển dương pháp môn Tịnh-Ðộ mà Ðức Phật Thích-Ca đã giảng dạy để cứu chúng sanh thời Mạt Pháp này.
Sách mang tựa “Vô Nhất Ðại Sư Thích-Thiền-Tâm, một cao tăng cận đại” do Ưu-Bà-Di Bảo-Ðăng viết. Sách dày 562 trang. Chúng tôi đã viết về Trái Tim Xá-Lợi của Bồ-Tát Thích-Quảng-Ðức và 12 câu chuyện “Niệm Phật Vãng Sanh Lưu Xá-Lợi” của chư Tăng Ni và Phật tử hiện đời, mà thiếu sót chuyện “Chiếc Răng Xá-Lợi Huyền Bí” của cố Hòa Thượng Thích-Thiền-Tâm là một điều đáng trách, nên chúng tôi vội trích đăng dưới đây.
Vả lại, từ buổi đầu sưu giải Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật của Hòa Thượng Thiền-Tâm, chúng tôi đã có cái duyên liên hệ rồi; nay chấm dứt sách này bằng câu chuyện Hòa Thượng Thiền-Tâm do niệm Phật mà Ngài đắc qủa vãng sanh, âu cũng là đúng đạo nghĩa. Hòa Thượng Thiền-Tâm vào năm 1992, lúc ấy 68 tuổi, báo trước sáu tháng rằng Ðức A-Di-Ðà Thế-Tôn đã báo tin ngày giờ (6 giờ 15 phút sáng ngày 13-12-1992 dl) sẽ rước về cõi Cực-Lạc. Ðúng ngày giờ, Ngài ngồi giữa đại-chúng, kết ấn A-Di-Ðà Ðịnh, bỗng mở mắt ra nói: “Ta đi đây, đại chúng nên bảo trọng” rồi lặng yên an nhiên thoát hóa ngay trên bản tọa.
LƯU XÁ-LỢI
Nha (xỉ) Xá-Lợi
Từ khi Ngài bế quan, nhập thất trở lại và quyết chí niệm Phật để cầu được vãng sanh từ năm 1975 cho đến nay (1992) gần 20 năm trôi qua, Ngài sống đời đạm bạc và an phận tu hành, nếm đủ hết các mùi tân-khổ, tự giam mình trong căn thất nhỏ chưa đầy 20 thước vuông, đêm ngày lẽ bái hành trì, xưng niệm hồng danh của Ðức A-Di-Ðà Thế-Tôn không gián đoạn, cơm hẩm, canh rau, khắc khổ qua ngày, một việc làm mà các vị cùng tu đương thời ít ai sánh nổi. Ðương nhiên là sắc than tứ đại của Ngài cũng phải theo lẽ sanh diệt vô thường mà biến đổi, yếu đau, nhưng bù lại công đức tu hành của Ngài càng thêm tăng tiến, tinh thần càng thêm minh mẫn, trí huệ càng thêm được phát sanh.
Cứ mỗi lần Ngài vào trong khóa lễ và trì niệm, thì nơi răng của Ngài lại tiết ra một chất nước cam-lộ có mùi vị ngọt thanh, trưởng dưỡng đạo-căn ngày thêm thành thục, theo ý thơ sau:
Ẩn tu niệm Phậ suốt thâu canh,
Cam-lộ từ răng đượm ngọt thanh.
Khát nước đã nhờ công-đức thủy,
Lam-Kiều chi nhọc hỏi Vân-Anh.
(Ẩn tu ngẫu-vịnh)
Và do vì như vậy mà tất cả 32 chiếc răng của Ngài dù đã biến thành ra “Nha (xỉ) Xá-Lợi”. Vì sao mà được biết là tất cả các răng của Ngài đã biến thành Xá-Lợi?
Ðây chắc chắn là một câu hỏi đầu tiên và phổ thông nhất trên môi, miệng của tất cả mọi người khi đọc đến đây.(Bảo-Ðăng dám chắc như vậy)
Việc này không phải là chuyện sai ngoa hay khoe khoang, khoác lác (vì cố Hòa Thượng có bao giờ nói với ai là Ngài tu cao, hay là đã chứng đắc được qủa vị gì đâu. Trái lại Ngài còn nói là mình kém tài năng, vô đức hạnh nữa thì làm sao nói rằng Ngài là một người khoe khoang, khoác lác được.) Xin hãy đọc và nghe Bảo-Ðăng kể lại câu chuyện sau đây:
Mấy năm sau cùng trước khi viên tịch, nướu răng (cấm) của Ngài bị sưng làm cho Ngài hơi khó chịu vì đau nhức. Một người tại gia đệ tử của Ngài pháp danh là Chánh-Kiến sau khi được biết như vậy có xin phép (vào thăm bịnh) và thưa cùng Ngài rằng:
-Bạch Hòa Thượng, con có một đứa con trai là nha sĩ có phòng làm răng ở Sàigòn. Ðược biết Ngài bị sưng răng, nếu như Ngài cho phép con sẽ gọi nó lên đây để chữa trị cho Ngài. Xin Ngài từ bi cho chúng con được ân triêm chút phần phước đức.
Ngài bằng lòng và sau đó vị nha sĩ Hòa (tên con trai của đạo hữu Chánh-Kiến) chở một số máy móc nha khoa từ Sàigòn lên Phương Liên tịnh xứ để khám răng cho “Sư Ông”.
Bảo Ðăng xin đăng lại (một ít) phần phỏng vấn của mình nơi phòng làm việc của vị nha sĩ ấy trong hai lần về Sàigòn như sau:
Thưa chị, răng của Sư Ông 32 cái còn nguyên, cứng chắc, trắng trẻo, đều đặn như răng của một người còn trẻ tuổi, và tôi thấy có một điều lạ lùng, đặc biệt là các răng cấm của Sư Ông không có các vết hằn sâu xuống như răng cấm của mọi người bình thường.
Hỏi: Nghĩa là sao?
Ðáp: Nghĩa là các răng cấm của Sư Ông đều vun cao lên tròn trịa như hòn bi. Sau khi khám kỹ thì tôi thấy Sư Ông chỉ bị sưng nướu răng cho nên hành ra đau nhức mà thôi. Muốn nó hết nhức lẹ thì chỉ việc nhổ quách là xong. Tôi trình bày như vậy và được Sư Ông đồng ý cho phép nhổ.
Sau khi nhổ răng xong rồi thì Ni Sư trưởng tử (tức là Ni Sư Thanh-Nguyệt đã bưng dĩa chực sẵn kế bên) liền thỉnh ngay chiếc răng của Sư Ông vào dĩa và đem để lên bàn thờ Phật. Riêng tôi thì tiếp tục hầu chuyện cùng Sư Ông. Một chập sau, Sư Ông hỏi: “Con có cần hỏi Thầy thêm chuyện gì nữa không?”
Không hiểu sao tôi bỗng dưng đáp: “Bạch Sư Ông, không có, con chỉ xin Sư Ông cho con thỉnh cái răng vừa mới nhổ để làm kỷ niệm.”
Sư Ông nhìn tôi một cách chăm chú. Ngài lặng thinh một hồi, cười bảo với Ni Sư Thanh-Nguyệt: “Thôi cho nó cái răng đo đi, bởi vì nhân duyên của nó có phần như vậy.”
Ni Sư trưởng tử làm thinh chần chờ có ý không muốn trao răng, và Sư Ông phải nhắc lại một lần nữa: “Thôi! Cho nó đi.”
Lúc đó Ni Sư mới chịu đi lên bàn Phật lấy răng xuống trao cho tôi với vẻ mặt gượng ép. Khi trao răng, Sư Ông có nói: “Cái răng này cũng bình thường thôi chứ không có gì lạ hết. Nhưng vì Sư Ông đã niệm Phật trì chú lâu rồi, nên sau này nếu như có ai lỡ bị bịnh ma-tà dựa nhập thì cho họ mượn đeo vào mình vài ngày là ma tà sẽ xuất ra ngay.”
Tôi vâng dạ, nhưng cũng không để ý gì cho mấy, (vì lúc đó tôi còn rất ấu trĩ trong đường đạo nên không biết chi nhiều) chỉ biết gói cất kỹ răng lại và để vào túi áo mà thôi. Có người biết được việc này nên đề nghị với tôi là xin mua lại cái răng với giá 3 chỉ vàng. Tôi từ chối ngay lập tức, sau đó tôi nói lại việc này với Ba tôi (Chánh-Kiến), Ba tôi cười và nói: “Ba lượng, 30 lượng, 300 lượng cũng còn chưa xứng. Bộ khùng sao mà đem răng của Sư Ông bán chứ!”
Tôi mang chiếc răng ấy về Sàigòn và cất làm kỷ niệm. Lúc Ba Má tôi được chấp thuận qua Mỹ, tôi mới nghĩ rằng: “Bình sanh Ba Má tôi rất kính, qúy trọng Sư Ông. Nay Ba Má tôi sắp sửa đi Mỹ rồi, phải nên cắt cái răng làm hai, bọc vàng lại, làm dây chuyền cho Ba Má tôi đeo, làm kỷ vật của Sư Ông.”
Khi mang cái răng ấy xuống và trước khi sắp sửa cắt răng ra, điều đầu tiên mà tôi nhận thấy ở nơi chiếc răng này như sau:
-Mặc dù chiếc răng ấy để lâu ngày rồi, nhưng vẫn giữ được màu trắng tinh và sáng bóng, sạch… y như một răng sống, chứ không phải như răng chết đã được nhổ lên lâu ngày.
-Răng ấy có 2 màu: nửa bên là màu ngà trắng sáng, nửa bên là màu ngũ sắc như xa cừ.
-Từ trong răng có vị thơm thoảng bay ra.
Mặc dù thấy như vậy và trong tâm cũng rất lấy làm lạ, nhưng tôi vẫn quyết định cắt răng ấy ra làm hai. Tôi dùng cưa nha sĩ cắt, nhưng lưỡi cưa bị trợt ra ngoài, răng nháng lửa lên, và vẫn giữ y nguyên không hề hấn gì. Tôi rất lấy làm lạ nghĩ hay lưỡi cưa cũ chăng? Sau đó, tôi dùng lưỡi cưa mới nguyên, cắm cúi cả buổi, nhưng chiếc răng chẳng hề bị khuy tổ chút nào. Tôi mới nghĩ đem chiếc răng đến chỗ chuyên môn cưa thép để nhờ cắt giùm. Người ta đòi tiền công tới 50000 đồng VN. Tôi và y ta kỳ kèo mãi, sau cùng y ta đồng ý. Ông ta dùng loại cưa lọng đặc biệt, kẹp cái răng vào bàn cắt, cùng với một người phụ nữa. Ðến đây tôi mới thấy có chuyện lạ lùng xảy ra:
Lưỡi cưa cứ luôn bị trợt ra ngoài, lửa nháng lên mà cái răng vẫn cứ y nhiên như cũ, không bị trầy trụa chút nào. Tôi đề nghị thay lưỡi cưa mới. Càng cưa đến đổ mồ hôi, thì nó càng nháng lửa ra, bay mùi khét mà chiếc răng cứ trơ ra, vẫn còn nguyên.
Ðem về, tôi vẫn cố tìm cách cắt răng, dùng loại máy của nha sĩ loại mạnh nhất (6000 tua/giây), nhưng nó vẫn không hề bị tổn giảm.
Sau đó Sư Cô Bảo-Ðàn, từ trên Phương-Liên tịnh xứ đi xe đò xuống Sàigòn, đến gặp Ba Má tôi và nói rằng: “Hòa Thượng sai tôi xuống bảo nói lại với nha-sĩ Hòa là “cái gì” của Sư Ông cho, không muốn giữ thì trả lại, đừng có phá!”
Ba Má tôi thuật lại, tôi giật mình! Tôi kể lại việc thực hiện ý định của tôi. Sau cùng, biết xác quyết đây là chiếc răng Xá-Lợi, tôi đem bọc vàng, làm dây chuyền (không có móc khóa để không mở ra được) cho Ba tôi đeo. Kể từ khi đeo chiếc răng Xá-Lợi, lại một sự huyền diệu khác nữa xảy ra. Nha sĩ Hòa kể rằng:
Từ khi đeo chiếc răng Xá-Lợi, tôi cảm thấy nghề nghiệp của tôi tăng tiến vượt bực, những thân chủ có răng đau khó chữa, tìm đến tôi thì tôi chữa trị rất dễ dàng. Có lần một bà có răng đau, các nha sĩ khác đề nghị phải giải phẫu. Khi bà đến tôi là nha sĩ cuối cùng để khám quyết, tôi cũng nghĩ chỉ có giải phẫu thôi.
Sau đó, tôi dùng các nha dụng cần thiết. Ðến chừng xong rồi, tôi bảo bà hả miệng ra để xem lại, thì không thấy cái răng đau, tưởng bà nuốt vào bụng, nên hơi lo vội hỏi thì bà đáp: “Ðâu có, tôi nhổ vào trong ống nhổ, chu choa, nha sĩ giỏi quá, mới đụng tay vào cái răng rớt ra liền.”
Nha sĩ Hòa kể tiếp: thật ra tôi chưa làm gì hết, chỉ xem thử thôi rồi ấn nhe mấy cái thì chiếc răng đau tự nhiên tróc chân rớt ra ngoài (mà bà ấy cũng không hay và tôi cũng không biết nữa.)
Ðây là một trong nhiều sự phi thường khác mà tôi cũng không hiểu tại sao?! Qủa thật chiếc răng Xá-Lợi của Sư Ông có một sự thần diệu phi thường mà khoa học không làm sao hiểu thấu.
Nha sĩ Hòa kể thêm một sự linh thiêng khác nữa: tôi có một đứa con bị nạn lưu thông, cả mình mẩy nó đều bị trầy trụa, đau nhức lắm. Trưa hôm đó tôi nằm ngủ chung mà trong lòng có ý lo buồn, mơ màng chợt thấy có nhiều người từ ngoài cửa đi vào, xúm lại giật sợi dây chuyền có mang răng Xá-Lợi của Sư Ông. Hai đàng dằn co nhau một hồi, bỗng nghe mấy người đó nói với nhau rằng: “Thôi đi, đừng hành thằng con của y ta nữa bởi vì y ta có bảo bối, thần vật của Bồ-Tát hộ thân rồi, mình làm quá không nên đâu!”
Nói xong, họ đồn nhau ra khỏi cửa đi mất. Tôi giật mình thức dậy thấy tay mình vẫn còn nắm chặt chiếc răng Xá-Lợi của Sư Ông, còn sợi dây chuyền thì tuột ra đến mang tai (chớ không sút ra được vì dây chuyền qúa chật lại thêm bị hai tai cản lại.)
Ðấy là một lý do khác nữa để chúng ta biết thêm về chiếc răng Xá-Lợi của cố Hòa Thượng là bảo vật vô giá (của bậc nhục thân Bồ-Tát đến nỗi qủy thần cũng muốn cướp đoạt.)
Về chuện KIM-XÀ-VƯƠNG THỌ TANG
Trước khi chấm dứt sách này xin lược sơ về Hòa Thượng Thích-Thiền-Tâm và đôi Kim-Xà-Vương.
Trước 1972, Hòa Thượng Thiền-Tâm dùng pháp hiệu là Liên-Du, sau 1972 Hoà Thượng đổi là Vô-Nhất để tỏ ý khiêm-hạ là đời của Ngài chẳng có gì là hạng nhất, hay số một hết.
Từ 1968, Vô-Nhất Ðại Sư về Lâm-Ðồng cất Chùa tịnh tu. Nơi đây có nhiều rắn; có khi rắn quấn đuôi nhau trên ngach cửa, thòng mình xuống, hả miệng, le lưỡi thở khè khè. Ðêm đêm rắn to bằng bắp chân nằm dưới chân giường, nếu sơ ý sẽ đạp nhằm.
Mỗi lần như vậy, Ngài bèn niệm Nam-Mô A-Di-Ðà Phật, và bảo: “Thôi sáng rồi, đạo hữu nên về để Thầy còn niệm Phật.” Rắn bò đi thật. Lần khác, Vô-Nhất Ðại Sư gặp rắn liền hỏi: “Có phải đạo hữu vào đây để nghe Kinh, nghe niệm Phật không? Nếu phải thì gật đầu ba cái.” Rắn làm y lời.
Sau này được biết dưới lòng đất của cái thất mà Ðại Sư Vô-Nhất ở là một gò mối, có vô số rắn đang ở. Về sau, một sáng có hai người Thượng xin gặp. Họ lễ phép chắp tay chào và còn biết niệm Phật.
Hai vợ chồng người Thượng đến xin lỗi Ðại Sư vì hồi trưa có đứa cháu nội phá phách làm Ðại Sư sợ. Thì ra đó là con rắn lớn bằng bắp chân phá làm cho Ðại Sư hết hồn. Và thì ra đây là cặp vợ chồng Kim-Xà-Vương, chồng 842 tuổi, vợ 760 tuổi đến xin sám hối và thời gian sau đó quy y với Ðại Sư.
Do đó, khi Vô-Nhất Ðại Sư viên tịch, cặp Kim-Xà-Vương đến đảnh lễ 3 lần rồi bò đi mất.
Trích trong sách “Những Chuyện Vãng Sanh Lưu Xá Lợi” của Cư Sĩ Tịnh Hải.
của Cố HT THÍCH-THIỀN-TÂM
đưọc gọi là “Nha (xỉ) Xá-Lợi”
Ngài đã nhập thất gồm 20 năm từ 1975-1992
Sách này đáng lý đã chấm dứt sau chuyện Cụ Bà Diệu-Chánh, nhưng không rõ do một duyên gì, chúng tôi nhận được một số sách do cháu Tịnh-Hạnh gởi tặng. Trong số sách này, chúng tôi lật ra xem, nhằm ngay một bài nói về Chiếc Răng Xá-Lợi của cố Hòa Thượng Thích-Thiền-Tâm, một cao tăng Việt Nam đã đem hết đời mình xiển dương pháp môn Tịnh-Ðộ mà Ðức Phật Thích-Ca đã giảng dạy để cứu chúng sanh thời Mạt Pháp này.
Sách mang tựa “Vô Nhất Ðại Sư Thích-Thiền-Tâm, một cao tăng cận đại” do Ưu-Bà-Di Bảo-Ðăng viết. Sách dày 562 trang. Chúng tôi đã viết về Trái Tim Xá-Lợi của Bồ-Tát Thích-Quảng-Ðức và 12 câu chuyện “Niệm Phật Vãng Sanh Lưu Xá-Lợi” của chư Tăng Ni và Phật tử hiện đời, mà thiếu sót chuyện “Chiếc Răng Xá-Lợi Huyền Bí” của cố Hòa Thượng Thích-Thiền-Tâm là một điều đáng trách, nên chúng tôi vội trích đăng dưới đây.
Vả lại, từ buổi đầu sưu giải Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật của Hòa Thượng Thiền-Tâm, chúng tôi đã có cái duyên liên hệ rồi; nay chấm dứt sách này bằng câu chuyện Hòa Thượng Thiền-Tâm do niệm Phật mà Ngài đắc qủa vãng sanh, âu cũng là đúng đạo nghĩa. Hòa Thượng Thiền-Tâm vào năm 1992, lúc ấy 68 tuổi, báo trước sáu tháng rằng Ðức A-Di-Ðà Thế-Tôn đã báo tin ngày giờ (6 giờ 15 phút sáng ngày 13-12-1992 dl) sẽ rước về cõi Cực-Lạc. Ðúng ngày giờ, Ngài ngồi giữa đại-chúng, kết ấn A-Di-Ðà Ðịnh, bỗng mở mắt ra nói: “Ta đi đây, đại chúng nên bảo trọng” rồi lặng yên an nhiên thoát hóa ngay trên bản tọa.
LƯU XÁ-LỢI
Nha (xỉ) Xá-Lợi
Từ khi Ngài bế quan, nhập thất trở lại và quyết chí niệm Phật để cầu được vãng sanh từ năm 1975 cho đến nay (1992) gần 20 năm trôi qua, Ngài sống đời đạm bạc và an phận tu hành, nếm đủ hết các mùi tân-khổ, tự giam mình trong căn thất nhỏ chưa đầy 20 thước vuông, đêm ngày lẽ bái hành trì, xưng niệm hồng danh của Ðức A-Di-Ðà Thế-Tôn không gián đoạn, cơm hẩm, canh rau, khắc khổ qua ngày, một việc làm mà các vị cùng tu đương thời ít ai sánh nổi. Ðương nhiên là sắc than tứ đại của Ngài cũng phải theo lẽ sanh diệt vô thường mà biến đổi, yếu đau, nhưng bù lại công đức tu hành của Ngài càng thêm tăng tiến, tinh thần càng thêm minh mẫn, trí huệ càng thêm được phát sanh.
Cứ mỗi lần Ngài vào trong khóa lễ và trì niệm, thì nơi răng của Ngài lại tiết ra một chất nước cam-lộ có mùi vị ngọt thanh, trưởng dưỡng đạo-căn ngày thêm thành thục, theo ý thơ sau:
Ẩn tu niệm Phậ suốt thâu canh,
Cam-lộ từ răng đượm ngọt thanh.
Khát nước đã nhờ công-đức thủy,
Lam-Kiều chi nhọc hỏi Vân-Anh.
(Ẩn tu ngẫu-vịnh)
Và do vì như vậy mà tất cả 32 chiếc răng của Ngài dù đã biến thành ra “Nha (xỉ) Xá-Lợi”. Vì sao mà được biết là tất cả các răng của Ngài đã biến thành Xá-Lợi?
Ðây chắc chắn là một câu hỏi đầu tiên và phổ thông nhất trên môi, miệng của tất cả mọi người khi đọc đến đây.(Bảo-Ðăng dám chắc như vậy)
Việc này không phải là chuyện sai ngoa hay khoe khoang, khoác lác (vì cố Hòa Thượng có bao giờ nói với ai là Ngài tu cao, hay là đã chứng đắc được qủa vị gì đâu. Trái lại Ngài còn nói là mình kém tài năng, vô đức hạnh nữa thì làm sao nói rằng Ngài là một người khoe khoang, khoác lác được.) Xin hãy đọc và nghe Bảo-Ðăng kể lại câu chuyện sau đây:
Mấy năm sau cùng trước khi viên tịch, nướu răng (cấm) của Ngài bị sưng làm cho Ngài hơi khó chịu vì đau nhức. Một người tại gia đệ tử của Ngài pháp danh là Chánh-Kiến sau khi được biết như vậy có xin phép (vào thăm bịnh) và thưa cùng Ngài rằng:
-Bạch Hòa Thượng, con có một đứa con trai là nha sĩ có phòng làm răng ở Sàigòn. Ðược biết Ngài bị sưng răng, nếu như Ngài cho phép con sẽ gọi nó lên đây để chữa trị cho Ngài. Xin Ngài từ bi cho chúng con được ân triêm chút phần phước đức.
Ngài bằng lòng và sau đó vị nha sĩ Hòa (tên con trai của đạo hữu Chánh-Kiến) chở một số máy móc nha khoa từ Sàigòn lên Phương Liên tịnh xứ để khám răng cho “Sư Ông”.
Bảo Ðăng xin đăng lại (một ít) phần phỏng vấn của mình nơi phòng làm việc của vị nha sĩ ấy trong hai lần về Sàigòn như sau:
Thưa chị, răng của Sư Ông 32 cái còn nguyên, cứng chắc, trắng trẻo, đều đặn như răng của một người còn trẻ tuổi, và tôi thấy có một điều lạ lùng, đặc biệt là các răng cấm của Sư Ông không có các vết hằn sâu xuống như răng cấm của mọi người bình thường.
Hỏi: Nghĩa là sao?
Ðáp: Nghĩa là các răng cấm của Sư Ông đều vun cao lên tròn trịa như hòn bi. Sau khi khám kỹ thì tôi thấy Sư Ông chỉ bị sưng nướu răng cho nên hành ra đau nhức mà thôi. Muốn nó hết nhức lẹ thì chỉ việc nhổ quách là xong. Tôi trình bày như vậy và được Sư Ông đồng ý cho phép nhổ.
Sau khi nhổ răng xong rồi thì Ni Sư trưởng tử (tức là Ni Sư Thanh-Nguyệt đã bưng dĩa chực sẵn kế bên) liền thỉnh ngay chiếc răng của Sư Ông vào dĩa và đem để lên bàn thờ Phật. Riêng tôi thì tiếp tục hầu chuyện cùng Sư Ông. Một chập sau, Sư Ông hỏi: “Con có cần hỏi Thầy thêm chuyện gì nữa không?”
Không hiểu sao tôi bỗng dưng đáp: “Bạch Sư Ông, không có, con chỉ xin Sư Ông cho con thỉnh cái răng vừa mới nhổ để làm kỷ niệm.”
Sư Ông nhìn tôi một cách chăm chú. Ngài lặng thinh một hồi, cười bảo với Ni Sư Thanh-Nguyệt: “Thôi cho nó cái răng đo đi, bởi vì nhân duyên của nó có phần như vậy.”
Ni Sư trưởng tử làm thinh chần chờ có ý không muốn trao răng, và Sư Ông phải nhắc lại một lần nữa: “Thôi! Cho nó đi.”
Lúc đó Ni Sư mới chịu đi lên bàn Phật lấy răng xuống trao cho tôi với vẻ mặt gượng ép. Khi trao răng, Sư Ông có nói: “Cái răng này cũng bình thường thôi chứ không có gì lạ hết. Nhưng vì Sư Ông đã niệm Phật trì chú lâu rồi, nên sau này nếu như có ai lỡ bị bịnh ma-tà dựa nhập thì cho họ mượn đeo vào mình vài ngày là ma tà sẽ xuất ra ngay.”
Tôi vâng dạ, nhưng cũng không để ý gì cho mấy, (vì lúc đó tôi còn rất ấu trĩ trong đường đạo nên không biết chi nhiều) chỉ biết gói cất kỹ răng lại và để vào túi áo mà thôi. Có người biết được việc này nên đề nghị với tôi là xin mua lại cái răng với giá 3 chỉ vàng. Tôi từ chối ngay lập tức, sau đó tôi nói lại việc này với Ba tôi (Chánh-Kiến), Ba tôi cười và nói: “Ba lượng, 30 lượng, 300 lượng cũng còn chưa xứng. Bộ khùng sao mà đem răng của Sư Ông bán chứ!”
Tôi mang chiếc răng ấy về Sàigòn và cất làm kỷ niệm. Lúc Ba Má tôi được chấp thuận qua Mỹ, tôi mới nghĩ rằng: “Bình sanh Ba Má tôi rất kính, qúy trọng Sư Ông. Nay Ba Má tôi sắp sửa đi Mỹ rồi, phải nên cắt cái răng làm hai, bọc vàng lại, làm dây chuyền cho Ba Má tôi đeo, làm kỷ vật của Sư Ông.”
Khi mang cái răng ấy xuống và trước khi sắp sửa cắt răng ra, điều đầu tiên mà tôi nhận thấy ở nơi chiếc răng này như sau:
-Mặc dù chiếc răng ấy để lâu ngày rồi, nhưng vẫn giữ được màu trắng tinh và sáng bóng, sạch… y như một răng sống, chứ không phải như răng chết đã được nhổ lên lâu ngày.
-Răng ấy có 2 màu: nửa bên là màu ngà trắng sáng, nửa bên là màu ngũ sắc như xa cừ.
-Từ trong răng có vị thơm thoảng bay ra.
Mặc dù thấy như vậy và trong tâm cũng rất lấy làm lạ, nhưng tôi vẫn quyết định cắt răng ấy ra làm hai. Tôi dùng cưa nha sĩ cắt, nhưng lưỡi cưa bị trợt ra ngoài, răng nháng lửa lên, và vẫn giữ y nguyên không hề hấn gì. Tôi rất lấy làm lạ nghĩ hay lưỡi cưa cũ chăng? Sau đó, tôi dùng lưỡi cưa mới nguyên, cắm cúi cả buổi, nhưng chiếc răng chẳng hề bị khuy tổ chút nào. Tôi mới nghĩ đem chiếc răng đến chỗ chuyên môn cưa thép để nhờ cắt giùm. Người ta đòi tiền công tới 50000 đồng VN. Tôi và y ta kỳ kèo mãi, sau cùng y ta đồng ý. Ông ta dùng loại cưa lọng đặc biệt, kẹp cái răng vào bàn cắt, cùng với một người phụ nữa. Ðến đây tôi mới thấy có chuyện lạ lùng xảy ra:
Lưỡi cưa cứ luôn bị trợt ra ngoài, lửa nháng lên mà cái răng vẫn cứ y nhiên như cũ, không bị trầy trụa chút nào. Tôi đề nghị thay lưỡi cưa mới. Càng cưa đến đổ mồ hôi, thì nó càng nháng lửa ra, bay mùi khét mà chiếc răng cứ trơ ra, vẫn còn nguyên.
Ðem về, tôi vẫn cố tìm cách cắt răng, dùng loại máy của nha sĩ loại mạnh nhất (6000 tua/giây), nhưng nó vẫn không hề bị tổn giảm.
Sau đó Sư Cô Bảo-Ðàn, từ trên Phương-Liên tịnh xứ đi xe đò xuống Sàigòn, đến gặp Ba Má tôi và nói rằng: “Hòa Thượng sai tôi xuống bảo nói lại với nha-sĩ Hòa là “cái gì” của Sư Ông cho, không muốn giữ thì trả lại, đừng có phá!”
Ba Má tôi thuật lại, tôi giật mình! Tôi kể lại việc thực hiện ý định của tôi. Sau cùng, biết xác quyết đây là chiếc răng Xá-Lợi, tôi đem bọc vàng, làm dây chuyền (không có móc khóa để không mở ra được) cho Ba tôi đeo. Kể từ khi đeo chiếc răng Xá-Lợi, lại một sự huyền diệu khác nữa xảy ra. Nha sĩ Hòa kể rằng:
Từ khi đeo chiếc răng Xá-Lợi, tôi cảm thấy nghề nghiệp của tôi tăng tiến vượt bực, những thân chủ có răng đau khó chữa, tìm đến tôi thì tôi chữa trị rất dễ dàng. Có lần một bà có răng đau, các nha sĩ khác đề nghị phải giải phẫu. Khi bà đến tôi là nha sĩ cuối cùng để khám quyết, tôi cũng nghĩ chỉ có giải phẫu thôi.
Sau đó, tôi dùng các nha dụng cần thiết. Ðến chừng xong rồi, tôi bảo bà hả miệng ra để xem lại, thì không thấy cái răng đau, tưởng bà nuốt vào bụng, nên hơi lo vội hỏi thì bà đáp: “Ðâu có, tôi nhổ vào trong ống nhổ, chu choa, nha sĩ giỏi quá, mới đụng tay vào cái răng rớt ra liền.”
Nha sĩ Hòa kể tiếp: thật ra tôi chưa làm gì hết, chỉ xem thử thôi rồi ấn nhe mấy cái thì chiếc răng đau tự nhiên tróc chân rớt ra ngoài (mà bà ấy cũng không hay và tôi cũng không biết nữa.)
Ðây là một trong nhiều sự phi thường khác mà tôi cũng không hiểu tại sao?! Qủa thật chiếc răng Xá-Lợi của Sư Ông có một sự thần diệu phi thường mà khoa học không làm sao hiểu thấu.
Nha sĩ Hòa kể thêm một sự linh thiêng khác nữa: tôi có một đứa con bị nạn lưu thông, cả mình mẩy nó đều bị trầy trụa, đau nhức lắm. Trưa hôm đó tôi nằm ngủ chung mà trong lòng có ý lo buồn, mơ màng chợt thấy có nhiều người từ ngoài cửa đi vào, xúm lại giật sợi dây chuyền có mang răng Xá-Lợi của Sư Ông. Hai đàng dằn co nhau một hồi, bỗng nghe mấy người đó nói với nhau rằng: “Thôi đi, đừng hành thằng con của y ta nữa bởi vì y ta có bảo bối, thần vật của Bồ-Tát hộ thân rồi, mình làm quá không nên đâu!”
Nói xong, họ đồn nhau ra khỏi cửa đi mất. Tôi giật mình thức dậy thấy tay mình vẫn còn nắm chặt chiếc răng Xá-Lợi của Sư Ông, còn sợi dây chuyền thì tuột ra đến mang tai (chớ không sút ra được vì dây chuyền qúa chật lại thêm bị hai tai cản lại.)
Ðấy là một lý do khác nữa để chúng ta biết thêm về chiếc răng Xá-Lợi của cố Hòa Thượng là bảo vật vô giá (của bậc nhục thân Bồ-Tát đến nỗi qủy thần cũng muốn cướp đoạt.)
Về chuện KIM-XÀ-VƯƠNG THỌ TANG
Trước khi chấm dứt sách này xin lược sơ về Hòa Thượng Thích-Thiền-Tâm và đôi Kim-Xà-Vương.
Trước 1972, Hòa Thượng Thiền-Tâm dùng pháp hiệu là Liên-Du, sau 1972 Hoà Thượng đổi là Vô-Nhất để tỏ ý khiêm-hạ là đời của Ngài chẳng có gì là hạng nhất, hay số một hết.
Từ 1968, Vô-Nhất Ðại Sư về Lâm-Ðồng cất Chùa tịnh tu. Nơi đây có nhiều rắn; có khi rắn quấn đuôi nhau trên ngach cửa, thòng mình xuống, hả miệng, le lưỡi thở khè khè. Ðêm đêm rắn to bằng bắp chân nằm dưới chân giường, nếu sơ ý sẽ đạp nhằm.
Mỗi lần như vậy, Ngài bèn niệm Nam-Mô A-Di-Ðà Phật, và bảo: “Thôi sáng rồi, đạo hữu nên về để Thầy còn niệm Phật.” Rắn bò đi thật. Lần khác, Vô-Nhất Ðại Sư gặp rắn liền hỏi: “Có phải đạo hữu vào đây để nghe Kinh, nghe niệm Phật không? Nếu phải thì gật đầu ba cái.” Rắn làm y lời.
Sau này được biết dưới lòng đất của cái thất mà Ðại Sư Vô-Nhất ở là một gò mối, có vô số rắn đang ở. Về sau, một sáng có hai người Thượng xin gặp. Họ lễ phép chắp tay chào và còn biết niệm Phật.
Hai vợ chồng người Thượng đến xin lỗi Ðại Sư vì hồi trưa có đứa cháu nội phá phách làm Ðại Sư sợ. Thì ra đó là con rắn lớn bằng bắp chân phá làm cho Ðại Sư hết hồn. Và thì ra đây là cặp vợ chồng Kim-Xà-Vương, chồng 842 tuổi, vợ 760 tuổi đến xin sám hối và thời gian sau đó quy y với Ðại Sư.
Do đó, khi Vô-Nhất Ðại Sư viên tịch, cặp Kim-Xà-Vương đến đảnh lễ 3 lần rồi bò đi mất.
Trích trong sách “Những Chuyện Vãng Sanh Lưu Xá Lợi” của Cư Sĩ Tịnh Hải.
Xa Loi cua Dong Hung
ÐỒNG-HƯNG LÊ-VĂN-HIẾU
Trong mỗi bài chúng tôi viết đều có mang sắc thái khác nhau chứa những ẩn ý hướng dẫn một số qúy vị chưa từng biết tu là gì, chưa từng gặp trường hợp khi trong nhà có người tu Niệm Phật đang hấp hối, con cháu phải làm sao?
Nếu qúy vị nào quan tâm sẽ rút lấy được kinh nghiệm của những vị đã học hỏi đầy đủ, mà chúng tôi cố ý nêu ra để ai chưa biết, ghi nhớ và khi hữu sự theo đó mà lo cho thân nhân.
Trong chuyện vãng sanh của Bồ-Tát Sơ-Phát-Tâm Ðồng-Hưng có nhiều chỗ giúp cho chúng ta kinh nghiệm.
Tại sao chúng tôi gọi nam Phật tử Ðồng-Hưng là Bồ-Tát vãng sanh. Ðây là cách gọi của Pháp Sư Tịnh-Không gọi bà Diệu-Âm Huỳnh-Ngọc-Tuyết, vì trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Ðức Phật nói: “Chúng sanh nào niệm Phật chí thành thì uy lực của danh hiệu Nam-Mô-A-Di-Ðà-Phật đã khiến cho tâm thể của người ấy trở nên thanh tịnh mà người ấy không hề hay biết, tự nhiên chứng nhập sơ Phần-Pháp-Thân.”
Chứng được Sơ-Phần-Pháp-Thân tức là chứng qủa Bồ-Tát thứ nhứt, gọi là Sơ-Ðịa Bồ-Tát.
Như ông Ðồng-Hưng trong chuyện này đã niệm Phật khiến tâm thể được thanh tịnh rốt ráo mà đoạn cuối bài chúng tôi sẽ chứng minh. Xin qúy vị theo dõi để xét lại sự trình bày của chúng tôi.
Bài này do anh Thiện-Viên, một Phật tử thuần thành ở vùng thủ đô Washington D.C. viết. Hàng năm anh tổ chức nhiều chuyến viếng thăm các chùa tại các tiểu bang lân cận Virginia. Anh mang kinh sách, băng giảng đến các nơi xa tặng đồng bào Phật tử thủ đô Hoa Kỳ với sự hướng dẫn của Sư Cô Luân-Liên trụ trì Phật-Bảo-Tự mang cả ngàn cuốn “Những Chuyện Vãng Sanh Lưu Xá-Lợi” đến các chùa ở Pensylvania, Maryland, New-York, v.v… phát động cao trào niệm Phật Vãng Sanh. Chính Sư Cô Luân-Liên đã tổ chức hộ niệm khi Bồ-Tát Sơ-Phát-Tâm Ðồng-Hưng lâm chung.
Ðại Sư Ấn-Quang, Tổ thứ 13 Tịnh-Ðộ Tông dạy: “Giúp một chúng sanh vãng sanh là giúp một chúng sanh thành Phật, công đức ấy không thể nghĩ bàn.” Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Ðức Phật đã dạy:
“Ðây là môn tu Ðại Bồ-Ðề, Ðại Siêu Việt, mà chư Phật dùng làm cứu cánh để giúp chúng sanh thành Phật, như Phật ngay trong một kiếp.” (trang 19) Và đến trang 30, Ðức Phật nói: “Vãng sanh đồng ý nghĩa với thành Phật, vì vãng sanh tức là thành Phật.” Vì vãng sanh trước sau gì cũng sẽ thành Phật.
Hiện nay chúng tôi đã ấn tống toàn văn Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, qúy vị có thể giở Kinh ra xem chúng tôi nói có đúng không. Cho nên Ðại Sư Ấn-Quang mới nói: “Giúp một chúng sanh vãng sanh tức là giúp một chúng sanh thành Phật, công đức không thể nghĩ bàn.”
Theo anh Thiện-Viên, hiện nay tại vùng D.C., bất cứ gia đình nào có việc nhờ hộ niệm là Sư Cô Luân-Liên không ngại giờ giấc đến giúp ngay và lo mọi việc đến nơi đến chốn. Nếu khắp nơi, chư Tăng Ni đều tích cực như vậy thì thời Mạt-Pháp này sẽ có nhiều người được vãng sanh.
Bài viết dưới đây in chữ đứng, do vợ chồng Thiện-Viên chứng kiến ghi lại và sau cùng là lời thêm của chúng tôi.
Trường hợp vãng sanh lưu Xá-Lợi
của Phật tử Ðồng-Hưng
Kính thưa Qúy vị.
Chúng tôi đăng bức thơ sau đây không nhằm phô trương hay biểu dương một vấn đề gì. Mục tiêu chính yếu của bức thơ này gởi cho Chú Tịnh-Hải là một cư sĩ đã từng sưu giải quyển “Những Chuyện Niệm Phật Vãng Sanh Lưu Xá-Lợi” cho hậu thế, để thông báo cho Chú biết thêm một trường hợp vãng sanh lưu Xá-Lợi của Phật tử Ðồng-Hưng (Lê-Văn-Hiếu) khá đặc biệt.
Kính thưa Qúy Ðạo Hữu,
Xin đọc qua bức thơ và câu chuyện vãng sanh của Phật tử Ðồng-Hưng để chúng ta giữ vững Chánh Tinh Tấn, tịnh tâm chí thành niệm Hồng Danh A-Di-Ðà hằng ngày. Trong 48 Ðại nguyện của Ðức Phật A-Di-Ðà, đại nguyện thứ 18 của Ngài nguyện rằng: “Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh chí tâm tin mộ muốn sanh về cõi nước tôi, nhẫn đến mười niệm, nếu không được sanh, thời tôi không ở ngôi chánh-giác.”
Kính mời Chư Qúy Ðạo Hữu, Qúy Phật tử đồng hương đến Chùa Phật Bảo Tự (tọa lạc tại 4701 Backlick Road, Annandale, VA 22003. ÐT: (703) 256-8230) để chiêm ngưỡng Xá-Lợi của Phật tử Ðồng-Hưng.
Trân trọng.
Phật tử Thiện-Viên & Ngọc-Xuân
***
Virginia, ngày 26 tháng 3 năm 2001
Chú Tịnh-Hải kính mến,
Trước vợ chồng cháu (Thiện-Viên và Ngọc-Xuân) kính đôi lời vấn an Chú, với tâm trạng nửa buồn, nửa vui, vợ chồng cháu có đôi dòng thông báo đến Chú; một hiền hữu của chúng cháu đã lìa trần sau cơn bạo bịnh. Buồn vì hợp tan ly biệt của cuộc đời vô thường đến qúa nhanh để lại nhiều kỷ niệm mến tiếc, vui vì câu chuyện vãng sanh của anh rất thù thắng, rất dị biệt như chuyện vãng sanh của anh Chúc-Qúy trong quyển “Những Chuyện Vãng Sanh Lưu Xá-Lợi” ấn hành thứ nhứt.
Thưa Chú Tịnh-Hải,
Khoảng hơn một tuần lễ trước ngày lìa trần, anh Ðồng-Hưng hoàn toàn trong trạng thái hôn mê tại bịnh viện Fairfax, do sự cung thỉnh của chị Ðồng-Thịnh (Ngô-Thị-Nuôi), hiền nội của anh Ðồng-Hưng, Chị này sùng đạo Phật đến tuyệt đối, mỗi ngày lễ Phật vài trăm lạy, điển hình chúng ta thấy trán Chị do công phu Lễ Phật đã nổi dấu ấn xám đen, Sư Cô Thích-Nữ Luân-Liên, đương kim trụ trì Phật-Bảo-Tự, và Ni Cô Liên-Trí, tháp tùng theo là vợ chồng cháu, anh chị than hữu của anh Ðồng-Hưng, còn có thêm một đạo hữu rất thân với Phật tử Ðồng-Hưng, người này không rõ danh tánh lắm, chỉ biết anh tên là Trị, cùng đến tận giường bịnh (Fairfax Hospital) để niệm Kinh cầu nguyện cho anh Ðồng-Hưng.
Nhìn dáng vẻ của anh Ðồng-Hưng, chúng cháu không khỏi chạnh lòng, chúng cháu vô cùng xúc động, toàn thân anh là dây nhợ chằng chịt của các biểu đồ để theo dõi những triệu chứng lâm sàng, và ống tiếp trợ từ bình dưỡng khí. Chúng cháu cảm thấy không khí trong bịnh viện hôm nay thê lương buồn bã làm sao! Cuộc đời qúa vô thường!… Nhớ rõ ràng cách đây vài ngày, vợ chồng cháu đến tư gia thăm anh ấy, hai tay anh rung rung xúc động đón nhận bát cháo nóng từ nơi chị Ðồng-Thịnh (hiền nội của anh) âu yếm trao cho. Chúng cháu khuyên nhủ anh ráng hoạt động tập thể dục hằng ngày. Anh buồn bực trả lời: “Tôi cố gắng hết sức, nhưng không sao thực hành được.”
Nhìn anh ta trong trạng thái mê trầm bất động, cháu ứa nước mắt, cháu có cảm giác mình đang khóc, khóc cho cuộc đời vô thường, sanh ly tử biệt. Cháu kề tay anh ấy nói khẽ: “Anh hãy cố phấn đấu trong cơn bạo bịnh, vắng anh các cháu sẽ khổ lắm.”
Sư Cô Luân-Liên ngắt cháu: “Trong tình huống hôm nay, tuyệt đối không khơi động tình cảm gia thê của anh, nó sẽ trở ngại rất lớn trong việc hộ niệm cho anh ấy.” Tiến đến bên giường bịnh nhân bằng một giọng đều đều nhẹ nhàng, Sư Cô bảo anh: “Chú Ðồng-Hưng, hôm nay Sư Cô đến đây để niệm Kinh cầu nguyện cho Chú, hãy tịnh tâm gạt bỏ mọi tạp niệm, nhứt tâm niệm Hồng Danh A-Di-Ðà, cầu nguyện lực của Ngài tiếp độ cho Chú.”
Mặc dù trong cơn nửa tỉnh nửa mê, nhưng sau những lời pháp nhủ nhẹ nhàng từ ái của Sư Cô Luân-Liên, chúng cháu cùng cả mọi người đều thấy rõ toàn thân anh Ðồng-Hưng chấn động; môi mấp máy, mi mắt cùng mấy ngón tay rung động, chiếc giường tự động anh đang nằm lên xuống mấy lần theo (theo sự trăn trở của bịnh nhân)
Sư Cô cho biết anh ấy đã cảm nhận được, mặc dù trong cơn hôn mê, Sư Cô hướng dẫn chúng cháu đồng hộ niệm. Bằng một giọng đều đều Sư Cô cùng Ni Cô Liên-Trí niệm Chú Dược-Sư và niệm Hồng-Danh A-Di-Ðà-Phật.
Sư Cô và Ni Cô Liên-Trí thường vào bịnh viện để cầu nguyện và hộ niệm cho anh Ðồng Hưng, trước khi ra về để lại một máy niệm Phật A-Di-Ðà, với âm vang niệm Phật trầm bổng của Thầy Thích-Giác-Sơn bên tai vừa đủ cho anh ấy nghe.
Sư Cô đề nghị gia đình: “Chú Ðồng-Hưng đến giai đoạn hết cách cứu chữa, bác sĩ cho biết rằng bịnh nhân cần phải phẫu thuật để dẫn sữa từ bên ngoài vào dạ dày để cung cấp dinh dưỡng, nhưng tình trạng sức khỏe không bảo đảm an toàn sau thời kỳ hậu phẫu thuật. Vậy nên đưa Chú Ðồng-Hưng trở về nhà.”
Toàn thể mọi người biểu quyết theo Sư Cô, đưa anh Ðồng-Hưng trở lại tư gia để tiện lợi cho việc hộ niệm và cầu nguyện. Tuy bịnh trạng của anh Ðồng-Hưng rất trầm trọng, nhưng qua nhiều lần cầu nguyện, hộ niệm tại nhà thương anh Ðồng-Hưng trở nên tỉnh táo nhẹ nhàng. Khi anh Ðồng-Hưng hiểu ý rằng anh sẽ được đưa về gia đình để hộ niệm, anh đã biểu hiện phấn khởi bằng cử động nhẹ tay chân, mi mắt rung động, nhép miệng với thần thái an tịnh.
Vào ngày mồng 8 tháng 2 (kỷ niệm ngày Ðức Phật xuất gia tầm đạo) nhằm ngày march 2, 2001, bịnh viện đã đưa Phật tử Lê-Văn-Hiếu, pháp danh Ðồng-Hưng sanh 1940 tại Long-An trở lại tư gia, với bộ phận tiếp dưỡng khí và y tá bịnh viện lúc 11 giờ trưa.
Sư Cô Luân-Liên và Ni Cô Liên-Trí đã túc trực sẵn từ 9 giờ sáng. Một lần nữa, bằng một giọng từ hòa, Sư Cô ban pháp nhủ cuối cùng: “Chú Ðồng-Hưng, Sư Cô, Ni Cô cùng qúy đạo hữu và gia đình đồng cầu nguyện hộ niệm cho Chú được nhẹ nhàng An-Lạc, gạt bỏ mọi vọng niệm, Chú nhớ niệm Phật theo, ráng nhứt tâm, đừng gián đoạn, Chư Phật sẽ tiếp độ cho Chú.”
Một lần nữa, mi mắt, bàn tay rung động nhẹ, anh Ðồng-Hưng đang cố gắng sức tàn như muốn gắng gượng ngồi dậy, hơi thở mạnh hơn.
Gia quyến gồm chị Ðồng-Thịnh, bảy con gái, một trai, hai con rể cùng Ban Trợ Niệm. Sư Cô khuyên bảo mọi người không nên có một lời than khóc thường tình, hay biểu lộ sự buồn thảm. Sư Cô phát cho mọi người một quyển Kinh và hướng dẫn mọi người niệm theo Sư Cô và Ni Cô Liên-Trí.
Toàn thể niệm Kinh trong bầu không khí trang nghiêm, thanh tịnh từ 12 giờ trưa. Ðúng 2 giờ 30 chiều, Sư Cô ra hiệu cho cô y tá bịnh viện rút ống tiếp hơi dưỡng khí; anh Ðồng-Hưng thở dồn dập mạnh, gián đoạn từng chập rất khó khăn.
Mọi người hiện diện đồng thanh niệm theo Sư Cô và Ni Cô Liên-Trí, chí thành và miệt mài. Tiếng Sư Cô Luân-Liên mỗi lúc một tơ, mọi người tập trung mãnh liệt hơn, hơi thở bịnh nhân từ từ yếu dần…
Hơn 5 giờ chiều, điềm lành xuất hiện, mặt bịnh nhân trở nên nhẹ nhàng an tĩnh, mặt, tai và lưỡi hồng hào như người khỏe mạnh mặc dù hơi thở từng chập, nhưng đều đều nhẹ nhàng, nét mặt từ hòa, hoan hỷ.
Cụ Bà Diệu-Ngọc (Ngô-Thị-Sơn), nhạc mẫu của anh Ðồng-Hưng, đã ngoài 85 tuổI, tuy đã qúa tuổi đại thọ, nhưng nhờ công phu niệm Phật trì niệm sớm chiều nên thần thái vẫn còn sung mãn; Cụ buột miệng thốt lên: “Thằng Hiếu mặt đỏ hồng hào như thế này chắc nó chưa đi trong ngày nay.”
Buổi hộ niệm kéo dài đến 5 giờ 48 phút, Sư Cô vì nhận thấy bịnh nhân rất tươi tắn và thở đều đặn nên nghĩ rằng bịnh nhân có thể kéo dài nhiều giờ. Ðể hộ niệm cho một buổi lễ cúng cho một Phật tử khác đã hứa trước, Sư Cô chuẩn bị đi, xong sẽ trở lại, nhưng xe vừa ra đến cổng, chị Ðồng-Thịnh hấp tấp gọi Sư Cô trở lại. Anh Ðồng-Hưng bắt đầu phun nước bọt.
Tiến nhanh đến bịnh nhân, Sư Cô dặn: “Chú Ðồng-Hưng ráng nhứt tâm niệm Phật.” Sư Cô cùng cả mọi người hiện diện tiếp tục hộ niệm. Vài phút sau, bỗng anh thở ra ba hơi dài, mỗi hơi cách nhau vài giây, mặt hơi ngẩn lên nửa như từ giã, nửa như cám ơn Sư Cô và trút hơi thở cưối cùng lúc 5 giờ 53 phút.
Tiếng niệm Phật vẫn tiếp tục vang đều. Sắc mặt anh Ðồng-Hưng đỏ hồng từ từ tái xanh, Sư Cô Luân-Lien thăm dò khí đạo, sờ nhẹ các nơi và cho biết: “Chú Ðồng-Hưng đã xuất thần lưu lại hơi ấm nơi đỉnh đầu trong trạng thái an tĩnh.” Sư Cô nói tiếp: “Phật tử Ðồng-Hưng đã vãng sanh. Sau buổi lễ hỏa táng, nên dặn dò nhà quàn, sau khi thiêu, không được dùng máy nghiền, hãy giữ nguyên xương cốt còn lại để kiểm nghiệm.”
Theo sự dặn dò của Sư Cô Luân-Liên, hai ngày sau, thân nhân của anh Ðồng-Hưng mang hết các túi đựng hài cốt của anh đem về Chùa cho Sư Cô kiểm nghiệm. Tỉ mỉ kiểm từng phần Sư Cô cho biết Phật tử Ðồng-Hưng đã lưu lại rất nhiều Xá-Lợi đủ loại, Xá-Lợi Não, Xá-Lợi Răng đủ màu sắt đẹp đẽ.
Kính Chú Tịnh-Hải,
Chúng cháu kính gởi thơ này kèm theo các hình màu đủ loại Xá-Lợi của Phật tử Ðồng-Hưng, mong rằng có thể giúp cho quyển “Niệm Phật Vãng Sanh Lưu Xá-Lợi” mà chú sắp tái bản. Nguyện cầu Hồng Ân Tam Bảo phù hộ chú được khang kiện, Bồ Ðề Tâm, cùng Bồ-Tát Hạnh kiên cố để đóng góp sở học của mình vào việc ấn hành Kinh Sách cho tiền đồ Phật Giáo.
Kính Chú,
Thiện-Viên & Ngọc-Xuân
Bài trên đây nếu được phân tách, có rất nhiều chỗ hay cho mọi người muốn tu vãng sanh học hỏi.
Trước khi đi sâu vào các điểm ấy, chúng tôi muốn nói them một việc. Vài ngày sau khi gởi thơ cho chúng tôi, Thiện-Viên gọi điện thoạI nói: “Chú Tịnh-Hải ơi! Cho cháu được bổ túc thêm mấy chữ trong điều thứ 18 của 48 đại nguyện của Ðức Phật A-Di-Ðà.”
Ðây là điều chúng tôi qúy mến sự thận trọng của Thiện-Viên, bởi Kinh Phật xem qua phải nắm cho vững, trích dẫn phải kỹ lưỡng. Nguyên văn điều thứ 18 như sau: “Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh chí tâm tin mộ muốn sanh về nước tôi, nhẫn đến mười niệm, nếu không được sanh, thời tôi không ở ngôi chánh giác; trừ kẻ tội tạo ngũ nghịch cùng hủy báng chánh pháp.”
Mười một chữ sau cùng vô cùng trọng hệ. Ở đây chúng tôi tạm không nói về tội ngũ nghịch vì nói ra khá dài, trong sách sưu giải có nói đầy đủ.
Bất cứ chúng sanh nào chí tâm tin mộ, tức hết lòng tin có Phật A-Di-Ðà xưng niệm danh hiệu Ngài, và khi lâm chung cố giữ sao cho mười niệm tiếp nối liền nhau (lời Phật Thích-Ca dạy trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật) chắc chắn vãng sanh. Ðức Phật A-Di-Ðà đã lập 48 đại nguyện và nói rằng nếu có người niệm Phật mà không vãng sanh, Ngài sẽ không ngồi ở ngôi chánh giác. Ðức Phật không bao giờ vọng ngôn, tức là nói lời không chơn thật. Ngài đang là Phật, nhưng nếu ai niệm Phật và giữ đúng như lời nguyện của Ngài, mà không vãng sanh, Ngài sẽ bỏ ngôi chánh giác. Phải hiểu đúng Kinh Phật như vậy.
Thiện-Viên bỏ sót và bổ túc 11 chữ: “Trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch cùng hủy báng chánh pháp.”
Như trước đây chúng tôi đã nói, có người bảo: “Tu tới tâm thanh tịnh là Tịnh-Ðộ rồi, là thấy Phật A-Di-Ðà, cần gì niệm Phật cho mệt.”
Hoặc có người nói: “Niệm Phật làm sao vãng sanh, về tới cõi Phật được?”
Ðó cũng là hủy báng chánh pháp rồi. Tuy miệng nói vậy, vài năm sau người ấy bỗng nhiên đổi pháp tu, chuyển sang niệm Phật. Vậy người ấy có được vãng sanh không?
Theo chúng tôi, chắc chắn là không? Dù sau này niệm Phật nhưng vị ấy cũng không được vãng sanh vì đã có lần phạm tội với Phật, làm sao về sống được ở đất không tội lỗi và rất thanh tịnh - tức trong sạch - của Phật A-Di-Ðà được.
Tuy nói vậy, nhưng Ðức Phật A-Di-Ðà cũng không quyết chấp. Ðã hủy báng chánh pháp muốn về cõi Cực-Lạc cũng còn có cách. Cách này chúng tôi đã trình bày ở đoạn trước, xin tìm sẽ thấy.
Muốn giúp người vãng sanh
nên học Sư Cô Luân-Liên
Như bao thường tình chúng sanh khác, khi Thiện-Viên nhìn thấy Phật tử Ðồng-Hưng đang trong trạng thái mê trầm bất động, liền xúc động muốn khóc, vội kề tai Ðồng-Hưng nói: “Anh hãy cố phấn đấu…vắng anh các cháu sẽ khổ lắm!”
Câu này giống như câu nói của một vị Sư đến nhà quàn làm Lễ cho người đã chết, mà chúng tôi được nghe: “Vong linh ơi! vợ xinh đẹp, con còn nhỏ dại, sao vong linh nỡ bỏ đi?”
Người sắp chết, hay đã chết nghe các câu nói tương tợ, thần thức sẽ vương vấn, vì qúa nặng tình không thể bỏ ra đi, nên sẽ lẩn quẩn bên thân xác. Cho nên trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Ðức Phật dạy về Tình và Tưởng, có nói: Người sắp lâm chung mà còn qúa nặng Tình sẽ đau khổ muôn kiếp. Tham luyến vợ con thì làm sao vãng sanh?
Rất may Sư Cô Luân-Liên đã chận lại và bảo: “Không nên khơi động tình cảm gia thê.” Nếu hiểu thấu điều này, chúng ta thấy Sư Cô Luân-Liên đã thâm nhập Phật Pháp rất sâu và Sư Cô hiểu rõ muốn hộ niệm cho một người sắp lâm chung cần phải dùng các lời khuyên bảo như thế nào? Ðối với người sắp chết và nói như thế nào để hướng dẫn vợ con và thân nhân người sắp chết, hay đã chết? Một lời nói không được học tập, không được chuẩn bị đầy đủ cũng có thể gây hại cho người chết, gây hại không phải một đời mà nhiều đời kiếp.
Cho nên rước Tăng Ni đến tụng niệm cũng phải tìm hiểu trước và phải hết sức thận trọng. Lúc ấy cần nơi đức tu của vị Tăng Ni, ở tấm lòng hoằng pháp độ sanh của vị Tăng Ni đến đám cho có mặt, làm lễ qua loa cho có lệ, lại thiếu đức tu, không được Phật, Bồ-Tát, Thiên-Thần Hộ Pháp qúy mến, thì thần thức người chết khó siêu thăng.
Ðây là mấy lời chân thành nói ra để qúy vị hiểu thật kỹ để chuẩn bị trước cho mình và cho thân nhân.
Trở lại Sư Cô Luân-Liên, sau khi cô ngăn bảo Thiện-Viên, Sư Cô tiến sát người bịnh, nói: “Chú Ðồng-Hưng, hôm nay Sư Cô đến đây để niệm Kinh cầu nguyện cho Chú, hãy tĩnh tâm gạt bỏ mọi tình cảm thế gian, dứt bỏ mọi tạp niệm, nhứt tâm niệm Hồng Danh A-Di-Ðà, cầu nguyện lực của Ngài tiếp độ cho chú.”
Ðây là lời nói xác đáng của một Thiện-Tri-Thức. Chính Sư Cô Luân-Liên đã nhắc nhở giúp Bồ-Tát Sơ-Phát-Tâm Ðồng-Hưng giữ được mười niệm cuối cùng theo lời Kinh dạy. Ðược vãng sanh hay không là lúc này. Theo chúng tôi trong giờ phút ấy, càng nói ngắn gọn hơn, súc tích đầy đủ ý nghĩa hơn, càng khiến cho người bịnh đang mệt hay hôn mê dễ chấp nhận hơn.
Trong bài này, Thiện-Viên viết tương đối đầy đủ từ lúc Ðồng-Hưng sắp tắt hơi thở và những viên Xá-Lợi tìm được sau lễ hỏa táng. Nhưng do lời yêu cầu của Thiện-Viên, chúng tôi tìm hiểu thêm những điều hữu ích viết ra, để Thiện-Viên và qúy vị cùng rút kinh nghiệm.
Ðồng-Hưng tu như thế nào
Mà đắc qủa Bồ-Tát vãng sanh?
Chúng tôi đã bỏ ra ba tuần lễ tiếp xúc với vợ con của anh Ðồng-Hưng. Chúng tôi có nhớ có lần đã hỏi Thiện-Viên: “Tu như Ðồng-Hưng làm sao có Xá-Lợi được?”
Thiện-Viên đáp: Gia đình bên vợ Ðồng-Hưng là người sùng đạo Phật, còn Ðồng-Hưng quy-y Tam Bảo từ thuở nhỏ.
Chúng tôi ngẫm nghĩ một hồi, rồi nói: Như vậy không đủ chứng minh khi chết Ðồng-Hưng vãng sanh, dù rằng Ðồng-Hưng đã lưu Xá-Lợi. Dù vợ Ðồng-Hưng lạy Phật nổi u bầm cả trán, có thể giúp ích cho Ðồng-Hưng nhiều mặt, nhưng không giúp mặt Vãng-Sanh Tây-Phương Cực-Lạc và có Xá-Lợi. Trong nhà Phật ai tu nấy chứng, không ai tu giùm cho ai được hết. Như Tôn-Giả A-Nan là bà con Phật, làm thị giả cho Phật, lại đa văn nghe làm sao nhớ y vậy; thế mà sau khi Phật nhập Ðại Niết-Bàn, Tôn-Giả A-Nan vẫn chưa đắc qủa A-La-Hán. Cho nên chúng ta nói phải có sách, mách phải có chứng.
Thiện-Viên cười, rồi trút mọi việc lên chúng tôi: “Vậy, việc tìm hiểu thêm xin nhờ ở Chú.” Nói xong, Thiện-Viên liền… bye bye Chú.
Dĩ nhiên là chúng tôi phải làm, dù rằng chúng tôi mệt về tim. Kết qủa chúng tôi tìm hiểu như sau:
Ðồng-Hưng tên thật là Lê-Văn-Hiếu, sanh ngày 23-11-1940 trong một gia đình trung lưu tại Long-An. Sau đó về ở Xóm Củi, Chợ-Lớn và thường đi chùa Long-Vân với bà Ngoại và biết tụng Kinh hồi nhỏ. Hơn 10 tuổi đã đi theo Sư Ông chùa Long-Vân đi hộ niệm cho người hấp hối hoặc dự các đám tang.
Lớn lên Lê-Văn-Hiếu đi lính mấy năm. Là một thanh niên có tâm đạo, nên dù ở đâu lúc rãnh đều đi chùa lạy Phật. Nghỉ phép về nhà lại theo bà Nội đi chùa. Rồi Lê-Văn-Hiếu ra lính, lập gia đình lo việc buôn bán ở Chợ-Lớn. Vào ngày Rằm, ngày Lễ, Hiếu thường theo các đoàn hành hương viếng các chùa ở Sài Gòn như Chùa Ấn-Quang, viếng các Chùa Trà-Cú, Bến-Tre, Mỹ-Tho và Chùa ở Núi Bà, v.v…
Ðến năm 1982, Lê-Văn-Hiếu cùng vợ con quy y với Hòa Thượng Thích-Hành-Trụ tại Chùa Ðông-Hưng ở Thủ-Thiêm. Hiếu được ban pháp danh Ðồng-Hưng và vợ là Ðồng-Thịnh.
Hiếu là người có đạo tâm, buôn bán thì luôn luôn bán rẻ cho mọi người, không hề nói thách. Ði chùa nào, thì lo tiếp tay với các Sư xây dựng sửa sang Chùa ấy. Khi qua Mỹ, vào 1992, Hiếu dành tiền gởi về Việt Nam giúp sửa sang lại Chùa Long-Vân. Qua Mỹ con cái muốn xin vô làm việc ở sòng bài, Hiếu liền cấm ngặt không cho.
Chẳng bao lâu Hiếu bị bịnh tiểu đường. Bịnh này thường kéo theo máu cao, lá lách bị sưng và thận bị hư nặng. Sau đó chân Hiếu bị liệt, không còn đi được, không thể qùy lạy Phật. Có lẽ do Hiếu không đi chùa lạy Phật, nên nhiều người cho rằng Hiếu thiếu sự tu tập. Nhưng! Ðâu ai ngờ, do cái duyên bịnh hoạn đó mà Hiếu đắc qủa vãng sanh? Qúy vị có tin điều này không? Nếu không tin, xin theo dõi thật kỹ đoạn này.
Càng bịnh hoạn đau đớn
Càng niệm Phật nhất tâm
Trong sách này như chúng ta đã thấy, đa số qúy vị vãng sanh lưu Xá-Lợi đều bị bịnh nặng như ung thư, tiểu đường… và khi biết mình bị bịnh trầm kha, người bị bịnh nếu là Phật tử tu Tịnh-Ðộ sẽ niệm Phật tha thiết, tin sâu vào cõi Cực-Lạc và quyết tâm niệm Phật để được vãng sanh, như là một cái phao cứu độ. Khi bịnh hành xác, người đau càng nhứt tâm xưng niệm hồng danh Nam-Mô A-Di-Ðà Phật.
Lúc Lê-Văn-Hiếu bị bịnh nặng, ngồi một chỗ buồn bực, chị Nuôi, vợ của Hiếu sợ chồng mình sẽ tự vận để khỏi đau đớn, nên thường khuyên chồng: “Mẹ con em sẽ tận tâm săn sóc cho anh, anh đừng nên nghĩ đến hủy hoại thân. Anh hãy ráng lo tĩnh tâm để rửa sạch nghiệp. Chỉ có Phật A-Di-Ðà mới cứu độ được anh. Anh hãy ráng lo niệm Phật.”
Hiếu trả lời vợ: “Tôi biết mà bà, tôi có lúc nào mà không niệm Phật!”
Mỗi ngày sáng và chiều, Hiếu đều thắp nhang và xá Phật, vì không lạy được. Ðúng giờ Hiếu nhắc vợ con chuẩn bị thắp nhang. Những giờ khác, Hiếu nín lặng ngồi nghe băng giảng, hoặc lặng lẽ ngồi niệm Phật. Tối ngủ cũng nghe băng niệm Phật và niệm theo.
Người đời, tối ngày ngồi nghe Tivi, radio hoặc miệng nói huyên thuyên. Các vị Tổ ngày xưa dạy: “Bớt nói một câu chuyện, thêm một câu Nam-Mô A-Di-Ðà Phật thì Tâm Thể sớm được yên tịnh.”
Chính những khi đau đớn thể xác, Bồ-Tát Sơ-Phát-Tâm Ðồng-Hưng Lê-Văn-Hiếu càng ít nói hơn và kiên trì niệm Phật không ngừng.
Như chúng tôi thường nhắc đi nhắc lại câu Ðức Phật Thích-Ca nói trong trang 27-28 rằng: “Nếu có chúng sanh nào chí thành xưng niệm danh hiệu Nam-Mô A-Di-Ðà-Phật, thì uy lực bất khả tư nghị của danh hiệu khiến cho Tâm Thể thanh tịnh mà chúng sanh ấy không hề hay biết, tự nhiên chứng nhập Sơ Phần Pháp Thân…”
Chúng ta hãy nghiệm lại xem, có phải do duyên đau đớn thể xác, mà bất cứ khi ngồi, nằm Ðồng-Hưng Lê-Văn-Hiếu đều âm thầm, lặng lẽ niệm danh hiệu Phật A-Di-Ðà, và uy lực của danh hiệu Nam-Mô A-Di-Ðà Phật càng giúp cho Tâm Thể của anh đang thanh tịnh càng thanh tịnh thêm, mà anh đâu hề hay biết. Như Phật nói, tự nhiên anh chứng nhập Sơ Phần Pháp Thân; đó là qủa Sơ-Ðịa Bồ-Tát.
Người niệm Phật như vậy đạt được sức định gọi là Niệm Phật Tam Muội. Những vị niệm Phật có được Xá-Lợi nhờ thân tâm yên tịnh kết nhục thân thành một khối lưu ly sáng ngời, mà trước đây chúng tôi đã từng trình bày. Những Xá-Lợi này chứng minh thêm rằng vị ấy niệm Phật đạt phẩm vị cao hơn người Niệm Phật đới nghiệp vãng sanh.
Như vậy, Ðồng-Hưng Lê-Văn-Hiếu tuy không tu hình thức như đi chùa, tụng kinh lạy Phật. Nhưng anh tu lặng lẽ, âm thầm chuyên tâm Niệm Phật. Nhưng anh tu lặng lẽ, âm thầm chuyên tâm Niệm Phật, theo lời Kinh Phật dạy.
Nơi trang 30, Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Ðức Phật dạy: “Muốn được vãng sanh Cực-Lạc chỉ cần xưng niệm danh hiệu Phật là đủ. Vì danh hiệu Phật chính là biểu tướng của Pháp-Thân cho nên niệm danh hiệu tức là niệm Pháp Thân Phật vậy, và người tu Niệm Phật khỏi phải kiêm thêm bất cứ môn tu nào nữa.”
Bồ-Tát Sơ-Phát-Tâm Ðồng-Hưng Lê-Văn-Hiếu đã niệm Phật và thâm nhập Pháp Thân Phật, nên đạt phẩm vị cao, lưu lại rất nhiều Xá-Lợi. Có thể nói, trong bài này cho thấy Ðồng-Hưng Lê-Văn-Hiếu giữ được hai phần vãng sanh:
1. Lúc Sư Cô Luân-Liên nhắc anh niệm Phật trước khi lâm chung.
2. Dù vậy, giả tỷ như không gặp được Sư Cô Luân-Liên, Ðồng-Hưng vẫn vãng sanh do niệm Phật đã nhập tâm giống như trường hợp của Cụ Bà Diệu-Chánh ở chuyện vãng sanh kế tiếp đây.
Hiện nay vẫn còn có rất nhiều người tu niệm nhưng chưa vì lâm bịnh trầm kha, không chí tử niệm Phật, thì làm sao được qủa vãng sanh cao được. Vì vậy mà có người ngộ nhận nói: “Mấy người vãng sanh có Xá-Lợi đều mang bịnh ung thư…” Nếu không do ác ý, thì đây là một sai lầm lớn.
Tiện đây xin kể một bài toán khó giải. Số là còn hai tháng nữa phải đưa sách này đến nhà in để tái ấn tống. Lúc này bịnh tình của chúng tôi hơi nặng, nhiều Tăng Ni và đạo hữu nghe tin gọi đến bảo sẽ tụng Kinh cầu an cho chúng tôi. Riêng Ngài “Hòa Thượng Xe Bus” bảo “Tịnh-Hải hãy nhứt tâm niệm Phật thì bịnh gì rồi cũng sẽ hết.”
Tại sao niệm A-Di-Ðà-Phật,
bịnh gì rồi cũng sẽ hết?
Chúng tôi hiểu rõ, Phật A-Di-Ðà là bậc Y Vương. Nhưng niệm Phật làm sao hết tất cả bịnh khổ? Chúng tôi lại lật Kinh Sách ra nghiên cứu, suy nghiệm mới hiểu rằng: “Mọi người đều có cái nghiệp do thân, miệng, ý sanh ra. Nghiệp ấy do một sức mạnh khiến cho mỗi chúng sanh phải chịu những cái qủa. Sức mạnh ấy gọi là lực, hay nghiệp lực. Mỗi người đều do nghiệp lực, mà hiện tại và tương lai cuộc sống người ấy tương ứng và chiêu cảm khổ đau, bịnh tật, nạn tai, thiên tai, hoặc ngược lại.”
Thí dụ một người làm ác thì do nghiệp lực mà có cuộc sống tương xứng và ứng hợp với điều ác đã làm và chiêu cảm bịnh hoạn hoặc thiên tai, nạn tai, giặc giả, v.v…
Nhưng khi một người đã nhất tâm Niệm Phật thì Tâm Thể thanh tịnh; thì do nghiệp lực mà cuộc sống hiện tại và tương lai của người ấy trở nên vui vẻ mạnh khỏe hết bịnh hoạn, hoặc người ấy lại bịnh hoạn thêm. Nhưng bịnh hoạn này không phải do nghiệp đời trước mà do chuyển nghiệp. Nhà Phật thường nói: “Tu là chuyển nghiệp.” Chỗ bịnh hoạn thêm này sẽ làm sạch hết nghiệp để về với Phật.
Và chính nghiệp lực của người chuyên tâm xưng niệm danh hiệu Nam-Mô A-Di-Ðà-Phật sẽ tương ứng và chiêu cảm y báo và chánh báo của Ðức Phật A-Di-Ðà ở cõi Cực-Lạc. (xem Kinh trang 17)
Tại sao đời này có những người sanh ra ở trong gia đình giàu có, sống hạnh phúc, vì kiếp trước họ làm nhiều điều thiện nên khi họ trở lại kiếp này nghiệp lực của họ tương ứng với giàu sang phú qúy, chiêu cảm cuộc sống tốt. Ðại khái như vậy, nếu nói đầy đủ phải tốn rất nhiều thời giờ.
Như vậy, nếu chúng tôi nhất tâm Niệm Phật, có thể bịnh gì rồi cũng hết. Giống như “Hòa Thượng Xe Bus”, trước đây Ngài bịnh hoạn trầm kha mà bây giờ Ngài chỉ ăn ngày một bửa; ngồi xe bus gần như quanh năm mà không bịnh hoạn gì cả; nói năng nghe rổn rảng. Hoặc có thể ngược lại, do chuyển nghiệp hoặc do niệm Phật sạch nghiệp thì đến lúc, cũng phải đi về với Phật.
Chúng tôi hiểu như vậy và đã chuẩn bị tâm lý, nên dù đang bịnh cũng coi như không có bịnh quyết hoàn thành sứ mạng tự mình nhận lấy.
Xin nói thêm về năng lực của
Danh hiệu A-Di-Ðà Phật.
Bồ-Tát Quán-Thế-Âm đã dùng nguyên một phẩm để nói về năng lực bất khả tư nghị của danh hiệu Nam-Mô A-Di-Ðà Phật (xem từ trang 103). Cuối cùng Ngài bảo: “Giả sử đem muôn ức Na-Do-Tha Hằng-Hà-Sa Quốc-Ðộ (tức là cõi các nước) mà nghiền thành vi trần (hạt bụi nhỏ) dùng khoảng thời gian vô cùng dài lâu ấy để diễn nói tất cả năng lực bất nghị của danh hiệu Phật, thì cũng không thể nào diễn nói cho đầy đủ hết được. Nay ta tạm thuyết ít phần trong vô lượng vô biên bất-khả-thuyết, bất-khả-thuyết, năng-lực bất-khả-tư-nghị của danh hiệu thù thắng, vi diệu đệ nhứt ấy.”
Trong nhà Phật, theo Cư Sĩ Nguyễn-Học-Tài, khi hai chữ “bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết” đi liền với nhau trở thành con số vĩ đại không viết ra nổi. Theo Bồ-Tát Quán-Thế-Âm, nếu Ngài dùng khoảng thời gian hàng triệu tỷ năm để nói về năng lực bất tư nghị của danh hiệu Nam-Mô A-Di-Ðà Phật cũng không sao diễn nói cho đầy đủ hết (cho nên chúng tôi thương và sợ giùm cho những vị nói rằng không có Phật A-Di-Ðà, không có cõi Cực-Lạc.)
Tóm lại, khi nghiệm ra được “Nghiệp lực tương ứng và chiêu cảm” chúng ta hiểu ngay tại sao có những người niệm Phật được vãng sanh.
Bây giờ xin trở lại một chút về hiện tượng vãng sanh của Ðồng-Hưng Lê-Văn-Hiếu.
Cháu Lê-Thu-Vân, Lê-Thu-Sen, con gái của Lê-Văn-Hiếu kể: “Khi nhà quàn đến chở xác của ba cháu, họ đến có hai người. Thấy vậy chị em cháu phải tiếp khiêng với họ đưa Ba ra xe. Lúc làm việc, cháu đụng phải tay Ba cháu. Cháu ngạc nhiên tại sao tay Ba cháu vẫn còn mềm dịu(?). Cháu bèn cầm tay Ba cháu lên xem, qủa thật tay Ba cháu dịu quặc. Cháu cầm các ngón tay Ba co vô co ra một cách dễ dàng.” (xin xem rõ chuyện của Cụ Bà Diệu-Chi để thấy trường hợp tương tợ) Cháu Thu-Vân kể thêm: “Lúc Ba cháu tắt thở, bỗng nhiên cháu thoáng ngửi một mùi hương ngạt ngào khiến trong người khỏe khoắn lạ lùng. Mùi thơm này không giống mùi nước hoa."
Vợ con Ðồng-Hưng còn kể chúng tôi nghe nhiều điều khác, về những giấc chiêm bao, nhưng nghĩ rằng không liên hệ đến sự vãng sanh, nên miễn kể ra đây.
Trích trong sách “Những Chuyện Vãng Sanh Lưu Xá Lợi” của Cư Sĩ Tịnh Hải.
Trong mỗi bài chúng tôi viết đều có mang sắc thái khác nhau chứa những ẩn ý hướng dẫn một số qúy vị chưa từng biết tu là gì, chưa từng gặp trường hợp khi trong nhà có người tu Niệm Phật đang hấp hối, con cháu phải làm sao?
Nếu qúy vị nào quan tâm sẽ rút lấy được kinh nghiệm của những vị đã học hỏi đầy đủ, mà chúng tôi cố ý nêu ra để ai chưa biết, ghi nhớ và khi hữu sự theo đó mà lo cho thân nhân.
Trong chuyện vãng sanh của Bồ-Tát Sơ-Phát-Tâm Ðồng-Hưng có nhiều chỗ giúp cho chúng ta kinh nghiệm.
Tại sao chúng tôi gọi nam Phật tử Ðồng-Hưng là Bồ-Tát vãng sanh. Ðây là cách gọi của Pháp Sư Tịnh-Không gọi bà Diệu-Âm Huỳnh-Ngọc-Tuyết, vì trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Ðức Phật nói: “Chúng sanh nào niệm Phật chí thành thì uy lực của danh hiệu Nam-Mô-A-Di-Ðà-Phật đã khiến cho tâm thể của người ấy trở nên thanh tịnh mà người ấy không hề hay biết, tự nhiên chứng nhập sơ Phần-Pháp-Thân.”
Chứng được Sơ-Phần-Pháp-Thân tức là chứng qủa Bồ-Tát thứ nhứt, gọi là Sơ-Ðịa Bồ-Tát.
Như ông Ðồng-Hưng trong chuyện này đã niệm Phật khiến tâm thể được thanh tịnh rốt ráo mà đoạn cuối bài chúng tôi sẽ chứng minh. Xin qúy vị theo dõi để xét lại sự trình bày của chúng tôi.
Bài này do anh Thiện-Viên, một Phật tử thuần thành ở vùng thủ đô Washington D.C. viết. Hàng năm anh tổ chức nhiều chuyến viếng thăm các chùa tại các tiểu bang lân cận Virginia. Anh mang kinh sách, băng giảng đến các nơi xa tặng đồng bào Phật tử thủ đô Hoa Kỳ với sự hướng dẫn của Sư Cô Luân-Liên trụ trì Phật-Bảo-Tự mang cả ngàn cuốn “Những Chuyện Vãng Sanh Lưu Xá-Lợi” đến các chùa ở Pensylvania, Maryland, New-York, v.v… phát động cao trào niệm Phật Vãng Sanh. Chính Sư Cô Luân-Liên đã tổ chức hộ niệm khi Bồ-Tát Sơ-Phát-Tâm Ðồng-Hưng lâm chung.
Ðại Sư Ấn-Quang, Tổ thứ 13 Tịnh-Ðộ Tông dạy: “Giúp một chúng sanh vãng sanh là giúp một chúng sanh thành Phật, công đức ấy không thể nghĩ bàn.” Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Ðức Phật đã dạy:
“Ðây là môn tu Ðại Bồ-Ðề, Ðại Siêu Việt, mà chư Phật dùng làm cứu cánh để giúp chúng sanh thành Phật, như Phật ngay trong một kiếp.” (trang 19) Và đến trang 30, Ðức Phật nói: “Vãng sanh đồng ý nghĩa với thành Phật, vì vãng sanh tức là thành Phật.” Vì vãng sanh trước sau gì cũng sẽ thành Phật.
Hiện nay chúng tôi đã ấn tống toàn văn Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, qúy vị có thể giở Kinh ra xem chúng tôi nói có đúng không. Cho nên Ðại Sư Ấn-Quang mới nói: “Giúp một chúng sanh vãng sanh tức là giúp một chúng sanh thành Phật, công đức không thể nghĩ bàn.”
Theo anh Thiện-Viên, hiện nay tại vùng D.C., bất cứ gia đình nào có việc nhờ hộ niệm là Sư Cô Luân-Liên không ngại giờ giấc đến giúp ngay và lo mọi việc đến nơi đến chốn. Nếu khắp nơi, chư Tăng Ni đều tích cực như vậy thì thời Mạt-Pháp này sẽ có nhiều người được vãng sanh.
Bài viết dưới đây in chữ đứng, do vợ chồng Thiện-Viên chứng kiến ghi lại và sau cùng là lời thêm của chúng tôi.
Trường hợp vãng sanh lưu Xá-Lợi
của Phật tử Ðồng-Hưng
Kính thưa Qúy vị.
Chúng tôi đăng bức thơ sau đây không nhằm phô trương hay biểu dương một vấn đề gì. Mục tiêu chính yếu của bức thơ này gởi cho Chú Tịnh-Hải là một cư sĩ đã từng sưu giải quyển “Những Chuyện Niệm Phật Vãng Sanh Lưu Xá-Lợi” cho hậu thế, để thông báo cho Chú biết thêm một trường hợp vãng sanh lưu Xá-Lợi của Phật tử Ðồng-Hưng (Lê-Văn-Hiếu) khá đặc biệt.
Kính thưa Qúy Ðạo Hữu,
Xin đọc qua bức thơ và câu chuyện vãng sanh của Phật tử Ðồng-Hưng để chúng ta giữ vững Chánh Tinh Tấn, tịnh tâm chí thành niệm Hồng Danh A-Di-Ðà hằng ngày. Trong 48 Ðại nguyện của Ðức Phật A-Di-Ðà, đại nguyện thứ 18 của Ngài nguyện rằng: “Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh chí tâm tin mộ muốn sanh về cõi nước tôi, nhẫn đến mười niệm, nếu không được sanh, thời tôi không ở ngôi chánh-giác.”
Kính mời Chư Qúy Ðạo Hữu, Qúy Phật tử đồng hương đến Chùa Phật Bảo Tự (tọa lạc tại 4701 Backlick Road, Annandale, VA 22003. ÐT: (703) 256-8230) để chiêm ngưỡng Xá-Lợi của Phật tử Ðồng-Hưng.
Trân trọng.
Phật tử Thiện-Viên & Ngọc-Xuân
***
Virginia, ngày 26 tháng 3 năm 2001
Chú Tịnh-Hải kính mến,
Trước vợ chồng cháu (Thiện-Viên và Ngọc-Xuân) kính đôi lời vấn an Chú, với tâm trạng nửa buồn, nửa vui, vợ chồng cháu có đôi dòng thông báo đến Chú; một hiền hữu của chúng cháu đã lìa trần sau cơn bạo bịnh. Buồn vì hợp tan ly biệt của cuộc đời vô thường đến qúa nhanh để lại nhiều kỷ niệm mến tiếc, vui vì câu chuyện vãng sanh của anh rất thù thắng, rất dị biệt như chuyện vãng sanh của anh Chúc-Qúy trong quyển “Những Chuyện Vãng Sanh Lưu Xá-Lợi” ấn hành thứ nhứt.
Thưa Chú Tịnh-Hải,
Khoảng hơn một tuần lễ trước ngày lìa trần, anh Ðồng-Hưng hoàn toàn trong trạng thái hôn mê tại bịnh viện Fairfax, do sự cung thỉnh của chị Ðồng-Thịnh (Ngô-Thị-Nuôi), hiền nội của anh Ðồng-Hưng, Chị này sùng đạo Phật đến tuyệt đối, mỗi ngày lễ Phật vài trăm lạy, điển hình chúng ta thấy trán Chị do công phu Lễ Phật đã nổi dấu ấn xám đen, Sư Cô Thích-Nữ Luân-Liên, đương kim trụ trì Phật-Bảo-Tự, và Ni Cô Liên-Trí, tháp tùng theo là vợ chồng cháu, anh chị than hữu của anh Ðồng-Hưng, còn có thêm một đạo hữu rất thân với Phật tử Ðồng-Hưng, người này không rõ danh tánh lắm, chỉ biết anh tên là Trị, cùng đến tận giường bịnh (Fairfax Hospital) để niệm Kinh cầu nguyện cho anh Ðồng-Hưng.
Nhìn dáng vẻ của anh Ðồng-Hưng, chúng cháu không khỏi chạnh lòng, chúng cháu vô cùng xúc động, toàn thân anh là dây nhợ chằng chịt của các biểu đồ để theo dõi những triệu chứng lâm sàng, và ống tiếp trợ từ bình dưỡng khí. Chúng cháu cảm thấy không khí trong bịnh viện hôm nay thê lương buồn bã làm sao! Cuộc đời qúa vô thường!… Nhớ rõ ràng cách đây vài ngày, vợ chồng cháu đến tư gia thăm anh ấy, hai tay anh rung rung xúc động đón nhận bát cháo nóng từ nơi chị Ðồng-Thịnh (hiền nội của anh) âu yếm trao cho. Chúng cháu khuyên nhủ anh ráng hoạt động tập thể dục hằng ngày. Anh buồn bực trả lời: “Tôi cố gắng hết sức, nhưng không sao thực hành được.”
Nhìn anh ta trong trạng thái mê trầm bất động, cháu ứa nước mắt, cháu có cảm giác mình đang khóc, khóc cho cuộc đời vô thường, sanh ly tử biệt. Cháu kề tay anh ấy nói khẽ: “Anh hãy cố phấn đấu trong cơn bạo bịnh, vắng anh các cháu sẽ khổ lắm.”
Sư Cô Luân-Liên ngắt cháu: “Trong tình huống hôm nay, tuyệt đối không khơi động tình cảm gia thê của anh, nó sẽ trở ngại rất lớn trong việc hộ niệm cho anh ấy.” Tiến đến bên giường bịnh nhân bằng một giọng đều đều nhẹ nhàng, Sư Cô bảo anh: “Chú Ðồng-Hưng, hôm nay Sư Cô đến đây để niệm Kinh cầu nguyện cho Chú, hãy tịnh tâm gạt bỏ mọi tạp niệm, nhứt tâm niệm Hồng Danh A-Di-Ðà, cầu nguyện lực của Ngài tiếp độ cho Chú.”
Mặc dù trong cơn nửa tỉnh nửa mê, nhưng sau những lời pháp nhủ nhẹ nhàng từ ái của Sư Cô Luân-Liên, chúng cháu cùng cả mọi người đều thấy rõ toàn thân anh Ðồng-Hưng chấn động; môi mấp máy, mi mắt cùng mấy ngón tay rung động, chiếc giường tự động anh đang nằm lên xuống mấy lần theo (theo sự trăn trở của bịnh nhân)
Sư Cô cho biết anh ấy đã cảm nhận được, mặc dù trong cơn hôn mê, Sư Cô hướng dẫn chúng cháu đồng hộ niệm. Bằng một giọng đều đều Sư Cô cùng Ni Cô Liên-Trí niệm Chú Dược-Sư và niệm Hồng-Danh A-Di-Ðà-Phật.
Sư Cô và Ni Cô Liên-Trí thường vào bịnh viện để cầu nguyện và hộ niệm cho anh Ðồng Hưng, trước khi ra về để lại một máy niệm Phật A-Di-Ðà, với âm vang niệm Phật trầm bổng của Thầy Thích-Giác-Sơn bên tai vừa đủ cho anh ấy nghe.
Sư Cô đề nghị gia đình: “Chú Ðồng-Hưng đến giai đoạn hết cách cứu chữa, bác sĩ cho biết rằng bịnh nhân cần phải phẫu thuật để dẫn sữa từ bên ngoài vào dạ dày để cung cấp dinh dưỡng, nhưng tình trạng sức khỏe không bảo đảm an toàn sau thời kỳ hậu phẫu thuật. Vậy nên đưa Chú Ðồng-Hưng trở về nhà.”
Toàn thể mọi người biểu quyết theo Sư Cô, đưa anh Ðồng-Hưng trở lại tư gia để tiện lợi cho việc hộ niệm và cầu nguyện. Tuy bịnh trạng của anh Ðồng-Hưng rất trầm trọng, nhưng qua nhiều lần cầu nguyện, hộ niệm tại nhà thương anh Ðồng-Hưng trở nên tỉnh táo nhẹ nhàng. Khi anh Ðồng-Hưng hiểu ý rằng anh sẽ được đưa về gia đình để hộ niệm, anh đã biểu hiện phấn khởi bằng cử động nhẹ tay chân, mi mắt rung động, nhép miệng với thần thái an tịnh.
Vào ngày mồng 8 tháng 2 (kỷ niệm ngày Ðức Phật xuất gia tầm đạo) nhằm ngày march 2, 2001, bịnh viện đã đưa Phật tử Lê-Văn-Hiếu, pháp danh Ðồng-Hưng sanh 1940 tại Long-An trở lại tư gia, với bộ phận tiếp dưỡng khí và y tá bịnh viện lúc 11 giờ trưa.
Sư Cô Luân-Liên và Ni Cô Liên-Trí đã túc trực sẵn từ 9 giờ sáng. Một lần nữa, bằng một giọng từ hòa, Sư Cô ban pháp nhủ cuối cùng: “Chú Ðồng-Hưng, Sư Cô, Ni Cô cùng qúy đạo hữu và gia đình đồng cầu nguyện hộ niệm cho Chú được nhẹ nhàng An-Lạc, gạt bỏ mọi vọng niệm, Chú nhớ niệm Phật theo, ráng nhứt tâm, đừng gián đoạn, Chư Phật sẽ tiếp độ cho Chú.”
Một lần nữa, mi mắt, bàn tay rung động nhẹ, anh Ðồng-Hưng đang cố gắng sức tàn như muốn gắng gượng ngồi dậy, hơi thở mạnh hơn.
Gia quyến gồm chị Ðồng-Thịnh, bảy con gái, một trai, hai con rể cùng Ban Trợ Niệm. Sư Cô khuyên bảo mọi người không nên có một lời than khóc thường tình, hay biểu lộ sự buồn thảm. Sư Cô phát cho mọi người một quyển Kinh và hướng dẫn mọi người niệm theo Sư Cô và Ni Cô Liên-Trí.
Toàn thể niệm Kinh trong bầu không khí trang nghiêm, thanh tịnh từ 12 giờ trưa. Ðúng 2 giờ 30 chiều, Sư Cô ra hiệu cho cô y tá bịnh viện rút ống tiếp hơi dưỡng khí; anh Ðồng-Hưng thở dồn dập mạnh, gián đoạn từng chập rất khó khăn.
Mọi người hiện diện đồng thanh niệm theo Sư Cô và Ni Cô Liên-Trí, chí thành và miệt mài. Tiếng Sư Cô Luân-Liên mỗi lúc một tơ, mọi người tập trung mãnh liệt hơn, hơi thở bịnh nhân từ từ yếu dần…
Hơn 5 giờ chiều, điềm lành xuất hiện, mặt bịnh nhân trở nên nhẹ nhàng an tĩnh, mặt, tai và lưỡi hồng hào như người khỏe mạnh mặc dù hơi thở từng chập, nhưng đều đều nhẹ nhàng, nét mặt từ hòa, hoan hỷ.
Cụ Bà Diệu-Ngọc (Ngô-Thị-Sơn), nhạc mẫu của anh Ðồng-Hưng, đã ngoài 85 tuổI, tuy đã qúa tuổi đại thọ, nhưng nhờ công phu niệm Phật trì niệm sớm chiều nên thần thái vẫn còn sung mãn; Cụ buột miệng thốt lên: “Thằng Hiếu mặt đỏ hồng hào như thế này chắc nó chưa đi trong ngày nay.”
Buổi hộ niệm kéo dài đến 5 giờ 48 phút, Sư Cô vì nhận thấy bịnh nhân rất tươi tắn và thở đều đặn nên nghĩ rằng bịnh nhân có thể kéo dài nhiều giờ. Ðể hộ niệm cho một buổi lễ cúng cho một Phật tử khác đã hứa trước, Sư Cô chuẩn bị đi, xong sẽ trở lại, nhưng xe vừa ra đến cổng, chị Ðồng-Thịnh hấp tấp gọi Sư Cô trở lại. Anh Ðồng-Hưng bắt đầu phun nước bọt.
Tiến nhanh đến bịnh nhân, Sư Cô dặn: “Chú Ðồng-Hưng ráng nhứt tâm niệm Phật.” Sư Cô cùng cả mọi người hiện diện tiếp tục hộ niệm. Vài phút sau, bỗng anh thở ra ba hơi dài, mỗi hơi cách nhau vài giây, mặt hơi ngẩn lên nửa như từ giã, nửa như cám ơn Sư Cô và trút hơi thở cưối cùng lúc 5 giờ 53 phút.
Tiếng niệm Phật vẫn tiếp tục vang đều. Sắc mặt anh Ðồng-Hưng đỏ hồng từ từ tái xanh, Sư Cô Luân-Lien thăm dò khí đạo, sờ nhẹ các nơi và cho biết: “Chú Ðồng-Hưng đã xuất thần lưu lại hơi ấm nơi đỉnh đầu trong trạng thái an tĩnh.” Sư Cô nói tiếp: “Phật tử Ðồng-Hưng đã vãng sanh. Sau buổi lễ hỏa táng, nên dặn dò nhà quàn, sau khi thiêu, không được dùng máy nghiền, hãy giữ nguyên xương cốt còn lại để kiểm nghiệm.”
Theo sự dặn dò của Sư Cô Luân-Liên, hai ngày sau, thân nhân của anh Ðồng-Hưng mang hết các túi đựng hài cốt của anh đem về Chùa cho Sư Cô kiểm nghiệm. Tỉ mỉ kiểm từng phần Sư Cô cho biết Phật tử Ðồng-Hưng đã lưu lại rất nhiều Xá-Lợi đủ loại, Xá-Lợi Não, Xá-Lợi Răng đủ màu sắt đẹp đẽ.
Kính Chú Tịnh-Hải,
Chúng cháu kính gởi thơ này kèm theo các hình màu đủ loại Xá-Lợi của Phật tử Ðồng-Hưng, mong rằng có thể giúp cho quyển “Niệm Phật Vãng Sanh Lưu Xá-Lợi” mà chú sắp tái bản. Nguyện cầu Hồng Ân Tam Bảo phù hộ chú được khang kiện, Bồ Ðề Tâm, cùng Bồ-Tát Hạnh kiên cố để đóng góp sở học của mình vào việc ấn hành Kinh Sách cho tiền đồ Phật Giáo.
Kính Chú,
Thiện-Viên & Ngọc-Xuân
Bài trên đây nếu được phân tách, có rất nhiều chỗ hay cho mọi người muốn tu vãng sanh học hỏi.
Trước khi đi sâu vào các điểm ấy, chúng tôi muốn nói them một việc. Vài ngày sau khi gởi thơ cho chúng tôi, Thiện-Viên gọi điện thoạI nói: “Chú Tịnh-Hải ơi! Cho cháu được bổ túc thêm mấy chữ trong điều thứ 18 của 48 đại nguyện của Ðức Phật A-Di-Ðà.”
Ðây là điều chúng tôi qúy mến sự thận trọng của Thiện-Viên, bởi Kinh Phật xem qua phải nắm cho vững, trích dẫn phải kỹ lưỡng. Nguyên văn điều thứ 18 như sau: “Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh chí tâm tin mộ muốn sanh về nước tôi, nhẫn đến mười niệm, nếu không được sanh, thời tôi không ở ngôi chánh giác; trừ kẻ tội tạo ngũ nghịch cùng hủy báng chánh pháp.”
Mười một chữ sau cùng vô cùng trọng hệ. Ở đây chúng tôi tạm không nói về tội ngũ nghịch vì nói ra khá dài, trong sách sưu giải có nói đầy đủ.
Bất cứ chúng sanh nào chí tâm tin mộ, tức hết lòng tin có Phật A-Di-Ðà xưng niệm danh hiệu Ngài, và khi lâm chung cố giữ sao cho mười niệm tiếp nối liền nhau (lời Phật Thích-Ca dạy trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật) chắc chắn vãng sanh. Ðức Phật A-Di-Ðà đã lập 48 đại nguyện và nói rằng nếu có người niệm Phật mà không vãng sanh, Ngài sẽ không ngồi ở ngôi chánh giác. Ðức Phật không bao giờ vọng ngôn, tức là nói lời không chơn thật. Ngài đang là Phật, nhưng nếu ai niệm Phật và giữ đúng như lời nguyện của Ngài, mà không vãng sanh, Ngài sẽ bỏ ngôi chánh giác. Phải hiểu đúng Kinh Phật như vậy.
Thiện-Viên bỏ sót và bổ túc 11 chữ: “Trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch cùng hủy báng chánh pháp.”
Như trước đây chúng tôi đã nói, có người bảo: “Tu tới tâm thanh tịnh là Tịnh-Ðộ rồi, là thấy Phật A-Di-Ðà, cần gì niệm Phật cho mệt.”
Hoặc có người nói: “Niệm Phật làm sao vãng sanh, về tới cõi Phật được?”
Ðó cũng là hủy báng chánh pháp rồi. Tuy miệng nói vậy, vài năm sau người ấy bỗng nhiên đổi pháp tu, chuyển sang niệm Phật. Vậy người ấy có được vãng sanh không?
Theo chúng tôi, chắc chắn là không? Dù sau này niệm Phật nhưng vị ấy cũng không được vãng sanh vì đã có lần phạm tội với Phật, làm sao về sống được ở đất không tội lỗi và rất thanh tịnh - tức trong sạch - của Phật A-Di-Ðà được.
Tuy nói vậy, nhưng Ðức Phật A-Di-Ðà cũng không quyết chấp. Ðã hủy báng chánh pháp muốn về cõi Cực-Lạc cũng còn có cách. Cách này chúng tôi đã trình bày ở đoạn trước, xin tìm sẽ thấy.
Muốn giúp người vãng sanh
nên học Sư Cô Luân-Liên
Như bao thường tình chúng sanh khác, khi Thiện-Viên nhìn thấy Phật tử Ðồng-Hưng đang trong trạng thái mê trầm bất động, liền xúc động muốn khóc, vội kề tai Ðồng-Hưng nói: “Anh hãy cố phấn đấu…vắng anh các cháu sẽ khổ lắm!”
Câu này giống như câu nói của một vị Sư đến nhà quàn làm Lễ cho người đã chết, mà chúng tôi được nghe: “Vong linh ơi! vợ xinh đẹp, con còn nhỏ dại, sao vong linh nỡ bỏ đi?”
Người sắp chết, hay đã chết nghe các câu nói tương tợ, thần thức sẽ vương vấn, vì qúa nặng tình không thể bỏ ra đi, nên sẽ lẩn quẩn bên thân xác. Cho nên trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Ðức Phật dạy về Tình và Tưởng, có nói: Người sắp lâm chung mà còn qúa nặng Tình sẽ đau khổ muôn kiếp. Tham luyến vợ con thì làm sao vãng sanh?
Rất may Sư Cô Luân-Liên đã chận lại và bảo: “Không nên khơi động tình cảm gia thê.” Nếu hiểu thấu điều này, chúng ta thấy Sư Cô Luân-Liên đã thâm nhập Phật Pháp rất sâu và Sư Cô hiểu rõ muốn hộ niệm cho một người sắp lâm chung cần phải dùng các lời khuyên bảo như thế nào? Ðối với người sắp chết và nói như thế nào để hướng dẫn vợ con và thân nhân người sắp chết, hay đã chết? Một lời nói không được học tập, không được chuẩn bị đầy đủ cũng có thể gây hại cho người chết, gây hại không phải một đời mà nhiều đời kiếp.
Cho nên rước Tăng Ni đến tụng niệm cũng phải tìm hiểu trước và phải hết sức thận trọng. Lúc ấy cần nơi đức tu của vị Tăng Ni, ở tấm lòng hoằng pháp độ sanh của vị Tăng Ni đến đám cho có mặt, làm lễ qua loa cho có lệ, lại thiếu đức tu, không được Phật, Bồ-Tát, Thiên-Thần Hộ Pháp qúy mến, thì thần thức người chết khó siêu thăng.
Ðây là mấy lời chân thành nói ra để qúy vị hiểu thật kỹ để chuẩn bị trước cho mình và cho thân nhân.
Trở lại Sư Cô Luân-Liên, sau khi cô ngăn bảo Thiện-Viên, Sư Cô tiến sát người bịnh, nói: “Chú Ðồng-Hưng, hôm nay Sư Cô đến đây để niệm Kinh cầu nguyện cho Chú, hãy tĩnh tâm gạt bỏ mọi tình cảm thế gian, dứt bỏ mọi tạp niệm, nhứt tâm niệm Hồng Danh A-Di-Ðà, cầu nguyện lực của Ngài tiếp độ cho chú.”
Ðây là lời nói xác đáng của một Thiện-Tri-Thức. Chính Sư Cô Luân-Liên đã nhắc nhở giúp Bồ-Tát Sơ-Phát-Tâm Ðồng-Hưng giữ được mười niệm cuối cùng theo lời Kinh dạy. Ðược vãng sanh hay không là lúc này. Theo chúng tôi trong giờ phút ấy, càng nói ngắn gọn hơn, súc tích đầy đủ ý nghĩa hơn, càng khiến cho người bịnh đang mệt hay hôn mê dễ chấp nhận hơn.
Trong bài này, Thiện-Viên viết tương đối đầy đủ từ lúc Ðồng-Hưng sắp tắt hơi thở và những viên Xá-Lợi tìm được sau lễ hỏa táng. Nhưng do lời yêu cầu của Thiện-Viên, chúng tôi tìm hiểu thêm những điều hữu ích viết ra, để Thiện-Viên và qúy vị cùng rút kinh nghiệm.
Ðồng-Hưng tu như thế nào
Mà đắc qủa Bồ-Tát vãng sanh?
Chúng tôi đã bỏ ra ba tuần lễ tiếp xúc với vợ con của anh Ðồng-Hưng. Chúng tôi có nhớ có lần đã hỏi Thiện-Viên: “Tu như Ðồng-Hưng làm sao có Xá-Lợi được?”
Thiện-Viên đáp: Gia đình bên vợ Ðồng-Hưng là người sùng đạo Phật, còn Ðồng-Hưng quy-y Tam Bảo từ thuở nhỏ.
Chúng tôi ngẫm nghĩ một hồi, rồi nói: Như vậy không đủ chứng minh khi chết Ðồng-Hưng vãng sanh, dù rằng Ðồng-Hưng đã lưu Xá-Lợi. Dù vợ Ðồng-Hưng lạy Phật nổi u bầm cả trán, có thể giúp ích cho Ðồng-Hưng nhiều mặt, nhưng không giúp mặt Vãng-Sanh Tây-Phương Cực-Lạc và có Xá-Lợi. Trong nhà Phật ai tu nấy chứng, không ai tu giùm cho ai được hết. Như Tôn-Giả A-Nan là bà con Phật, làm thị giả cho Phật, lại đa văn nghe làm sao nhớ y vậy; thế mà sau khi Phật nhập Ðại Niết-Bàn, Tôn-Giả A-Nan vẫn chưa đắc qủa A-La-Hán. Cho nên chúng ta nói phải có sách, mách phải có chứng.
Thiện-Viên cười, rồi trút mọi việc lên chúng tôi: “Vậy, việc tìm hiểu thêm xin nhờ ở Chú.” Nói xong, Thiện-Viên liền… bye bye Chú.
Dĩ nhiên là chúng tôi phải làm, dù rằng chúng tôi mệt về tim. Kết qủa chúng tôi tìm hiểu như sau:
Ðồng-Hưng tên thật là Lê-Văn-Hiếu, sanh ngày 23-11-1940 trong một gia đình trung lưu tại Long-An. Sau đó về ở Xóm Củi, Chợ-Lớn và thường đi chùa Long-Vân với bà Ngoại và biết tụng Kinh hồi nhỏ. Hơn 10 tuổi đã đi theo Sư Ông chùa Long-Vân đi hộ niệm cho người hấp hối hoặc dự các đám tang.
Lớn lên Lê-Văn-Hiếu đi lính mấy năm. Là một thanh niên có tâm đạo, nên dù ở đâu lúc rãnh đều đi chùa lạy Phật. Nghỉ phép về nhà lại theo bà Nội đi chùa. Rồi Lê-Văn-Hiếu ra lính, lập gia đình lo việc buôn bán ở Chợ-Lớn. Vào ngày Rằm, ngày Lễ, Hiếu thường theo các đoàn hành hương viếng các chùa ở Sài Gòn như Chùa Ấn-Quang, viếng các Chùa Trà-Cú, Bến-Tre, Mỹ-Tho và Chùa ở Núi Bà, v.v…
Ðến năm 1982, Lê-Văn-Hiếu cùng vợ con quy y với Hòa Thượng Thích-Hành-Trụ tại Chùa Ðông-Hưng ở Thủ-Thiêm. Hiếu được ban pháp danh Ðồng-Hưng và vợ là Ðồng-Thịnh.
Hiếu là người có đạo tâm, buôn bán thì luôn luôn bán rẻ cho mọi người, không hề nói thách. Ði chùa nào, thì lo tiếp tay với các Sư xây dựng sửa sang Chùa ấy. Khi qua Mỹ, vào 1992, Hiếu dành tiền gởi về Việt Nam giúp sửa sang lại Chùa Long-Vân. Qua Mỹ con cái muốn xin vô làm việc ở sòng bài, Hiếu liền cấm ngặt không cho.
Chẳng bao lâu Hiếu bị bịnh tiểu đường. Bịnh này thường kéo theo máu cao, lá lách bị sưng và thận bị hư nặng. Sau đó chân Hiếu bị liệt, không còn đi được, không thể qùy lạy Phật. Có lẽ do Hiếu không đi chùa lạy Phật, nên nhiều người cho rằng Hiếu thiếu sự tu tập. Nhưng! Ðâu ai ngờ, do cái duyên bịnh hoạn đó mà Hiếu đắc qủa vãng sanh? Qúy vị có tin điều này không? Nếu không tin, xin theo dõi thật kỹ đoạn này.
Càng bịnh hoạn đau đớn
Càng niệm Phật nhất tâm
Trong sách này như chúng ta đã thấy, đa số qúy vị vãng sanh lưu Xá-Lợi đều bị bịnh nặng như ung thư, tiểu đường… và khi biết mình bị bịnh trầm kha, người bị bịnh nếu là Phật tử tu Tịnh-Ðộ sẽ niệm Phật tha thiết, tin sâu vào cõi Cực-Lạc và quyết tâm niệm Phật để được vãng sanh, như là một cái phao cứu độ. Khi bịnh hành xác, người đau càng nhứt tâm xưng niệm hồng danh Nam-Mô A-Di-Ðà Phật.
Lúc Lê-Văn-Hiếu bị bịnh nặng, ngồi một chỗ buồn bực, chị Nuôi, vợ của Hiếu sợ chồng mình sẽ tự vận để khỏi đau đớn, nên thường khuyên chồng: “Mẹ con em sẽ tận tâm săn sóc cho anh, anh đừng nên nghĩ đến hủy hoại thân. Anh hãy ráng lo tĩnh tâm để rửa sạch nghiệp. Chỉ có Phật A-Di-Ðà mới cứu độ được anh. Anh hãy ráng lo niệm Phật.”
Hiếu trả lời vợ: “Tôi biết mà bà, tôi có lúc nào mà không niệm Phật!”
Mỗi ngày sáng và chiều, Hiếu đều thắp nhang và xá Phật, vì không lạy được. Ðúng giờ Hiếu nhắc vợ con chuẩn bị thắp nhang. Những giờ khác, Hiếu nín lặng ngồi nghe băng giảng, hoặc lặng lẽ ngồi niệm Phật. Tối ngủ cũng nghe băng niệm Phật và niệm theo.
Người đời, tối ngày ngồi nghe Tivi, radio hoặc miệng nói huyên thuyên. Các vị Tổ ngày xưa dạy: “Bớt nói một câu chuyện, thêm một câu Nam-Mô A-Di-Ðà Phật thì Tâm Thể sớm được yên tịnh.”
Chính những khi đau đớn thể xác, Bồ-Tát Sơ-Phát-Tâm Ðồng-Hưng Lê-Văn-Hiếu càng ít nói hơn và kiên trì niệm Phật không ngừng.
Như chúng tôi thường nhắc đi nhắc lại câu Ðức Phật Thích-Ca nói trong trang 27-28 rằng: “Nếu có chúng sanh nào chí thành xưng niệm danh hiệu Nam-Mô A-Di-Ðà-Phật, thì uy lực bất khả tư nghị của danh hiệu khiến cho Tâm Thể thanh tịnh mà chúng sanh ấy không hề hay biết, tự nhiên chứng nhập Sơ Phần Pháp Thân…”
Chúng ta hãy nghiệm lại xem, có phải do duyên đau đớn thể xác, mà bất cứ khi ngồi, nằm Ðồng-Hưng Lê-Văn-Hiếu đều âm thầm, lặng lẽ niệm danh hiệu Phật A-Di-Ðà, và uy lực của danh hiệu Nam-Mô A-Di-Ðà Phật càng giúp cho Tâm Thể của anh đang thanh tịnh càng thanh tịnh thêm, mà anh đâu hề hay biết. Như Phật nói, tự nhiên anh chứng nhập Sơ Phần Pháp Thân; đó là qủa Sơ-Ðịa Bồ-Tát.
Người niệm Phật như vậy đạt được sức định gọi là Niệm Phật Tam Muội. Những vị niệm Phật có được Xá-Lợi nhờ thân tâm yên tịnh kết nhục thân thành một khối lưu ly sáng ngời, mà trước đây chúng tôi đã từng trình bày. Những Xá-Lợi này chứng minh thêm rằng vị ấy niệm Phật đạt phẩm vị cao hơn người Niệm Phật đới nghiệp vãng sanh.
Như vậy, Ðồng-Hưng Lê-Văn-Hiếu tuy không tu hình thức như đi chùa, tụng kinh lạy Phật. Nhưng anh tu lặng lẽ, âm thầm chuyên tâm Niệm Phật. Nhưng anh tu lặng lẽ, âm thầm chuyên tâm Niệm Phật, theo lời Kinh Phật dạy.
Nơi trang 30, Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, Ðức Phật dạy: “Muốn được vãng sanh Cực-Lạc chỉ cần xưng niệm danh hiệu Phật là đủ. Vì danh hiệu Phật chính là biểu tướng của Pháp-Thân cho nên niệm danh hiệu tức là niệm Pháp Thân Phật vậy, và người tu Niệm Phật khỏi phải kiêm thêm bất cứ môn tu nào nữa.”
Bồ-Tát Sơ-Phát-Tâm Ðồng-Hưng Lê-Văn-Hiếu đã niệm Phật và thâm nhập Pháp Thân Phật, nên đạt phẩm vị cao, lưu lại rất nhiều Xá-Lợi. Có thể nói, trong bài này cho thấy Ðồng-Hưng Lê-Văn-Hiếu giữ được hai phần vãng sanh:
1. Lúc Sư Cô Luân-Liên nhắc anh niệm Phật trước khi lâm chung.
2. Dù vậy, giả tỷ như không gặp được Sư Cô Luân-Liên, Ðồng-Hưng vẫn vãng sanh do niệm Phật đã nhập tâm giống như trường hợp của Cụ Bà Diệu-Chánh ở chuyện vãng sanh kế tiếp đây.
Hiện nay vẫn còn có rất nhiều người tu niệm nhưng chưa vì lâm bịnh trầm kha, không chí tử niệm Phật, thì làm sao được qủa vãng sanh cao được. Vì vậy mà có người ngộ nhận nói: “Mấy người vãng sanh có Xá-Lợi đều mang bịnh ung thư…” Nếu không do ác ý, thì đây là một sai lầm lớn.
Tiện đây xin kể một bài toán khó giải. Số là còn hai tháng nữa phải đưa sách này đến nhà in để tái ấn tống. Lúc này bịnh tình của chúng tôi hơi nặng, nhiều Tăng Ni và đạo hữu nghe tin gọi đến bảo sẽ tụng Kinh cầu an cho chúng tôi. Riêng Ngài “Hòa Thượng Xe Bus” bảo “Tịnh-Hải hãy nhứt tâm niệm Phật thì bịnh gì rồi cũng sẽ hết.”
Tại sao niệm A-Di-Ðà-Phật,
bịnh gì rồi cũng sẽ hết?
Chúng tôi hiểu rõ, Phật A-Di-Ðà là bậc Y Vương. Nhưng niệm Phật làm sao hết tất cả bịnh khổ? Chúng tôi lại lật Kinh Sách ra nghiên cứu, suy nghiệm mới hiểu rằng: “Mọi người đều có cái nghiệp do thân, miệng, ý sanh ra. Nghiệp ấy do một sức mạnh khiến cho mỗi chúng sanh phải chịu những cái qủa. Sức mạnh ấy gọi là lực, hay nghiệp lực. Mỗi người đều do nghiệp lực, mà hiện tại và tương lai cuộc sống người ấy tương ứng và chiêu cảm khổ đau, bịnh tật, nạn tai, thiên tai, hoặc ngược lại.”
Thí dụ một người làm ác thì do nghiệp lực mà có cuộc sống tương xứng và ứng hợp với điều ác đã làm và chiêu cảm bịnh hoạn hoặc thiên tai, nạn tai, giặc giả, v.v…
Nhưng khi một người đã nhất tâm Niệm Phật thì Tâm Thể thanh tịnh; thì do nghiệp lực mà cuộc sống hiện tại và tương lai của người ấy trở nên vui vẻ mạnh khỏe hết bịnh hoạn, hoặc người ấy lại bịnh hoạn thêm. Nhưng bịnh hoạn này không phải do nghiệp đời trước mà do chuyển nghiệp. Nhà Phật thường nói: “Tu là chuyển nghiệp.” Chỗ bịnh hoạn thêm này sẽ làm sạch hết nghiệp để về với Phật.
Và chính nghiệp lực của người chuyên tâm xưng niệm danh hiệu Nam-Mô A-Di-Ðà-Phật sẽ tương ứng và chiêu cảm y báo và chánh báo của Ðức Phật A-Di-Ðà ở cõi Cực-Lạc. (xem Kinh trang 17)
Tại sao đời này có những người sanh ra ở trong gia đình giàu có, sống hạnh phúc, vì kiếp trước họ làm nhiều điều thiện nên khi họ trở lại kiếp này nghiệp lực của họ tương ứng với giàu sang phú qúy, chiêu cảm cuộc sống tốt. Ðại khái như vậy, nếu nói đầy đủ phải tốn rất nhiều thời giờ.
Như vậy, nếu chúng tôi nhất tâm Niệm Phật, có thể bịnh gì rồi cũng hết. Giống như “Hòa Thượng Xe Bus”, trước đây Ngài bịnh hoạn trầm kha mà bây giờ Ngài chỉ ăn ngày một bửa; ngồi xe bus gần như quanh năm mà không bịnh hoạn gì cả; nói năng nghe rổn rảng. Hoặc có thể ngược lại, do chuyển nghiệp hoặc do niệm Phật sạch nghiệp thì đến lúc, cũng phải đi về với Phật.
Chúng tôi hiểu như vậy và đã chuẩn bị tâm lý, nên dù đang bịnh cũng coi như không có bịnh quyết hoàn thành sứ mạng tự mình nhận lấy.
Xin nói thêm về năng lực của
Danh hiệu A-Di-Ðà Phật.
Bồ-Tát Quán-Thế-Âm đã dùng nguyên một phẩm để nói về năng lực bất khả tư nghị của danh hiệu Nam-Mô A-Di-Ðà Phật (xem từ trang 103). Cuối cùng Ngài bảo: “Giả sử đem muôn ức Na-Do-Tha Hằng-Hà-Sa Quốc-Ðộ (tức là cõi các nước) mà nghiền thành vi trần (hạt bụi nhỏ) dùng khoảng thời gian vô cùng dài lâu ấy để diễn nói tất cả năng lực bất nghị của danh hiệu Phật, thì cũng không thể nào diễn nói cho đầy đủ hết được. Nay ta tạm thuyết ít phần trong vô lượng vô biên bất-khả-thuyết, bất-khả-thuyết, năng-lực bất-khả-tư-nghị của danh hiệu thù thắng, vi diệu đệ nhứt ấy.”
Trong nhà Phật, theo Cư Sĩ Nguyễn-Học-Tài, khi hai chữ “bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết” đi liền với nhau trở thành con số vĩ đại không viết ra nổi. Theo Bồ-Tát Quán-Thế-Âm, nếu Ngài dùng khoảng thời gian hàng triệu tỷ năm để nói về năng lực bất tư nghị của danh hiệu Nam-Mô A-Di-Ðà Phật cũng không sao diễn nói cho đầy đủ hết (cho nên chúng tôi thương và sợ giùm cho những vị nói rằng không có Phật A-Di-Ðà, không có cõi Cực-Lạc.)
Tóm lại, khi nghiệm ra được “Nghiệp lực tương ứng và chiêu cảm” chúng ta hiểu ngay tại sao có những người niệm Phật được vãng sanh.
Bây giờ xin trở lại một chút về hiện tượng vãng sanh của Ðồng-Hưng Lê-Văn-Hiếu.
Cháu Lê-Thu-Vân, Lê-Thu-Sen, con gái của Lê-Văn-Hiếu kể: “Khi nhà quàn đến chở xác của ba cháu, họ đến có hai người. Thấy vậy chị em cháu phải tiếp khiêng với họ đưa Ba ra xe. Lúc làm việc, cháu đụng phải tay Ba cháu. Cháu ngạc nhiên tại sao tay Ba cháu vẫn còn mềm dịu(?). Cháu bèn cầm tay Ba cháu lên xem, qủa thật tay Ba cháu dịu quặc. Cháu cầm các ngón tay Ba co vô co ra một cách dễ dàng.” (xin xem rõ chuyện của Cụ Bà Diệu-Chi để thấy trường hợp tương tợ) Cháu Thu-Vân kể thêm: “Lúc Ba cháu tắt thở, bỗng nhiên cháu thoáng ngửi một mùi hương ngạt ngào khiến trong người khỏe khoắn lạ lùng. Mùi thơm này không giống mùi nước hoa."
Vợ con Ðồng-Hưng còn kể chúng tôi nghe nhiều điều khác, về những giấc chiêm bao, nhưng nghĩ rằng không liên hệ đến sự vãng sanh, nên miễn kể ra đây.
Trích trong sách “Những Chuyện Vãng Sanh Lưu Xá Lợi” của Cư Sĩ Tịnh Hải.
Subscribe to:
Posts (Atom)