của Bồ Tát THÍCH-QUẢNG-ÐỨC
Hòa thượng Thích-Quảng-Ðức đi tu từ thuở nhỏ ở miền Trung. Ngài sống cuộc đời giản dị và hoằng pháp độ sanh bằng phương cách xây dựng nhiều chùa. Trong cuộc đời Ngài đã xây tất cả 31 ngôi chùa, gồm 14 chùa ở miền Trung và 17 chùa ở miền Nam.
Trong cuộc tranh đấu Phật Giáo chống chính sách kỳ thị tôn giáo và gia đình trị của chế độ Ngô-Ðình-Diệm vào mùa Phật Ðản 1963, là thời kỳ sôi nổi nhứt, Hòa Thượng Thích-Quảng-Ðức về ngụ tại chùa Ấn Quang để tiện bề tham gia cuộc tranh đấu.
Ngày 30-5-63, Hòa Thượng tham gia cuộc biểu tình tại công trường Lam Sơn trước Quốc Hội, tới 5 giờ chiều về chùa Xá-Lợi dự cuộc tuyệt thực. Dịp này Hòa Thượng Thích-Quảng-Ðức trình lên Ủy-Ban Liên-Phái Bảo Vệ Phật-Giáo một bức Tâm thư xin tình nguyện tự thiêu. Thư đề ngày 27-5-63. Ủy-Ban Liên-Phái không chấp nhận sự tự thiêu.
Nhưng đến ngày 10-6-93, tình hình không được sáng sủa, chẳng những vậy mà Phật giáo tại Huế đang bị lâm nguy. Lúc này Hòa Thượng đang tụng kinh Pháp-Hoa tại chùa Ấn-Quang. Vào 8 giờ tốI 10-6-63, Thượng tọa Thích-Tâm-Châu và Thiện-Hoa đang họp ở chùa Xá-Lợi. Qúi vị cho mời Ðại Ðức Thích-Ðức-Nghiệp tới chùa để nhờ Ðại Ðức chuyển lời hỏi Hòa Thượng Quảng-Ðức về tâm nguyện tự thiêu nếu Hòa Thượng không thay đổi thì tổ chức ngay cuộc tự thiêu vào ngày hôm sau.
Hòa Thượng Quảng Ðức trả lời Ðại Ðức Ðức-Nghiệp rằng Ngài vẫn quyết tâm hy sinh cho đạo pháp, tự thiêu để cúng dường Tam Bảo. Trà lời Ðại Ðức Ðức-Nghiệpxong, Hòa Thượng bình thản như không có chuyện gì, lúc ấy là 7 giờ 30 đêm 10-6-63, Ngài lên chánh điện Chùa Ấn-Quang chủ lễ khóa Tịnh-Ðộ thường ngày. Buổi lễ cuối cùng ấy có Ðại Ðức Huệ-Thới đi chuông, Ðại Ðức Ðức-Niệm đi mỏ.
Ðại chúng hiện diện đều không ai biết một biến cố quan trọng sắp xảy ra. Sau khi Phật tử về hết, tại giữa chánh điện, Hòa Thượng Quảng-Ðức mới tâm sự với hai Ðại Ðức rằng:
Vì đạo pháp tôi xin hiến thân giả huyễn này để cho Pháp Nạn được giải thoát. Ngày mai này tôi sẽ giã từ cõi đời, hẹn gặp hai thầy ở cảnh giới Cực Lạc của Ðức Phật A-Di-Ðà. Sau khi tôi tự thiêu để hiến dâng cho Phật Pháp, xin các Thầy lưu ý, vì tôi không thể trực tiếp nói điều này với các Ngài lãnh đạo:
Một là, sau khi thân tôi thiêu thành tro bụi sẽ còn lưu lại một vật gì đó cho đời, thì đó là kết qủa tốt đẹp về lời phát nguyện của tôi hiến dâng thân này cho Ðạo Pháp và đó cũng là thành qủa đời tu hành của tôi.
Hai là, khi tôi thiêu, nếu tôi chết trong tư thế nằm ngửa thì nguyện vọng Phật-Giáo sẽ thành công, các Thầy cứ tiếp tục tranh đấu. Ngược lại nếu tôi chết nằm sấp thì qúy Thầy nên tìm cách đi ra các nước Miên, Lào, Thái, v.v… để mà tu, nguyện vọng tranh đấu của Phật-Giáo sẽ không thành.
Ba là, ngày di quan tài của tôi, nếu các Thầy có cảm thấy triệu chứng gì là lạ, có thể là ngủ mộng thấy, có thể là cảm giác hay triệu chứng gì thì nên đình chỉ ngay, dời việc di quan qua ngày khác.
Nghĩ lại ba điều Hòa Thượng Quảng-Ðức nói đêm trước ngày tự thiêu đều hiển ứng:
1. Thân thể Ngài thiêu thành tro, mà qủa tim của Ngài vẫn còn đỏ hồng như trái xoài chín dưới sức nóng 4.000 độ; nóng đến lò thiêu An-Dưỡng-Ðịa đã phải nứt nẻ.
2. Khi ngọn lửa thiêu than vừa lặn tắt, ba lần cuối đầu xá về hướng Tây, liền ngsay khi đó, Ngài bật ngửa nằm im trên mặt đất giữa ngã tư đường Phan-Ðình-Phùng và Lê-Văn-Duyệt trong tiếng niệm Phật vang dội của hàng trăm chư Tăng Ni đang ngồi vây quanh chấp tay thành kính. Tư thế viên tịch đúng như Ngài huyền ký lại, làm cho Tăng tín đồ tin tưởng vào sự thành công nguyện vọng bình đẳng tôn giáo mà quyết tâm dấn than hơn. Chung cuộc chánh nghĩa đã thắng.
3. Ai sống trong thời 1963, nếu có lưu tâm đến thời cuộc đều nhớ ngày di quan của Hòa Thượng Quảng-Ðức ra An-Dưỡng-Ðịa để thiêu. Theo chương trình là 10 giờ sáng. Dân chúng ở hai bên đường Phan-Than-Giản và đường Minh-Mạng lập hương án để tiễn đưa Ngài; nhưng mọi người đợi mãi đến hơn 12 giờ trưa mà vẫn chẳng thấy đâu. Sau đó mới nhận được thông báo của Ủy-Ban Liên-Phái Bảo Vệ Phật-Giáo cho biết dời ngày di quan. Dân chúng lúc bấy giờ vô cùng bang hoàng kinh ngạc. Khoảng 2 giờ chiều hôm ấy, người ta thấy năm bảy người mặc sắc phục đen lặng lẽ từ dưới bờ ruộng bước lên gở những qủa mìn đã được chôn từ lúc nào trên quãng đường đất dẫn đến lò thiêu của An-Dưỡng-Ðịa.
Nói về Hòa Thượng Quảng-Ðức, người sống rất giản dị thật bình dân. Lúc nào cũng lần chuỗi niệm Phật với gương mặt thản nhiên và miệng luôn luôn như mỉm cười. Những ngày Ngài ở chùa Ấn-Quang để chờ cấp lãnh đạo Phật-Giáo chấp thuận tâm nguyện tự thiêu, Ngài ăn cơm với Tăng Chúng, chứ không ngồi ăn cùng bàn với Ban Giám Ðốc Phật Học Ðường Nam-Việt chùa Ấn-Quang, hay các vị lãnh đạo Phật-Giáo.
Nói như thế để chúng ta thấy rằng, người mang tâm nguyện Bồ-Tát vào đời hành đạo bao giờ cũng thể hiện đời sống bình dị, pháp thu đơn giản của Phật dạy. Pháp tu đơn giản mà chúng tôi muốn nói ở đây chính là Pháp môn niệm Phật. Có lẽ vì qúa đơn giản mà người đời xem thường, từ tâm lý xem thường đưa đến khó tin vào năng lực của Pháp môn niệm Phật, nhu Kinh A-Di-Ðà Phật nói: “Nam tín chi pháp”. Có nghĩa là Pháp môn niệm Phật vãng sanh Cực-Lạc thật là đơn giản mà hiệu năng thì vô cùng. Vì vậy mà người đời khó tin!
Tưởng cũng nên nhắc lại, đến đêm 20-8-63, Ngô-Ðình-Diệm lại phản bội những gì đã ký kết với Phật-Giáo, rồi cho lịnh tấn công vào các chùa, bắt giam tất cả Tăng Ni toàn quốc, kể cả các vị lãnh đạo Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo Việt Nam tại chùa Xá-Lợi. Trong đêm đó cảnh sát của Diệm Nhu dự định đọat lấy Trái Tim Xá-Lợi, nhưng một Thiếu Tá cảnh sát đã nhanh tay cất giấu Trái Tim Xá-Lợi ấy, toán cảnh sát quýnh quáng tìm kiếm mà không ra. Sau khi tình hình yên ổn vị Thiếu Tá ấy-là một Phật Tử-đem hoàn lại vật thiêng cho qúy vị lãnh đạo Phật-Giáo tại chùa Xá-Lợi.
No comments:
Post a Comment